Thứ Hai, 22 tháng 8, 2011

THIÊN THỜI – ĐỊA LỢI – LIỆU ĐÃ NHÂN HÒA?


Thiên thời, địa lợinhân hòa, ba điều kiện ấy đều quan trọng cả. Nhưng thiên thời không quan trọng bằng địa lợi, mà địa lợi không quan trọng bằng nhân hoà. Nhân hoà là thế nào? Trong TTCK thì Nhân hoà là mọi người đều nhất trí, là Niềm tin vào kinh tế Vĩ mô và vào Thị trường Chứng khoán. Nhân hoà là quan trọng hơn hết. Vậy nhân đã hòa?
Yếu tố Thiên thời
-       Nước Mỹ không công bố về 1 chương trình QE3, nhưng chính sách nới lỏng vẫn sẽ tiếp tục. Lãi suất tiếp tục giữ ở mức thấp nhất đến giữa năm 2013 với tuyên bố của FED và FED vẫn tiếp tục việc mua vào Trái phiếu. Trần nợ đã được phê duyệt lên 2.400 tỷ dollar Mỹ trong vòng 2 năm. Điều này đủ hiểu rằng, Chính phủ  Mỹ sẽ tiếp tục một gói kích thích kinh tế một cách không ồn ào như QE1 và QE2. Đồng dollar rẻ sẽ tiếp tục được lưu hành. Tiền mặt tại các Quỹ sẽ ngày càng nhiều lên mà không biết “tiêu” vào đâu?  Vàng hay hàng hóa hay Chứng khoán? Vàng đang tăng giá từng ngày khi mà các Quỹ Tín thác đổ mạnh tiền cộng với tâm lý của Nhà đầu tư. Trong khi đó TTCK thế giới đang chứng kiến sự sụt giảm ghê gớm. Vậy với lượng tiền mặt khổng lồ đang tìm hướng đầu tư thì Vàng đang tăng giá mạnh hay CK giảm mạnh sẽ là mục tiêu tiếp theo. Với lượng tiền như vậy thì khi CK giảm về mức đủ rẻ và Vàng tiến đến mức đủ “rủi ro”. NĐT và các Quỹ sẽ quay trở lại với TTCK. Khi TTCK càng giảm nhanh và Vàng càng tăng mạnh sẽ càng rút ngắn thời gian để TTCK tăng điểm trở lại. Đây sẽ là điểm tương đồng mà TTCK Việt Nam sẽ đồng hành vào Tháng 9.
-       Niềm tin về CPI đạt đỉnh đang rõ hơn bao giờ hết. Theo đánh giá của nhiều chuyên gia kinh tế, CPI sẽ đạt đỉnh vào Tháng 8/2011 này. Điều này là hoàn toàn có cơ sở khi mà xem xét đến các yếu tố tác động đến việc tăng giá là không còn nhiều. Những yếu tố tác động mạnh đến CPI lại đang có dấu hiệu hạ nhiệt như : Giá xăng dầu, lãi suất…
-       Và niềm tin về việc giảm lãi suất : Với các con số báo cáo của Ủy ban Kinh tế Quốc hội và Tổng cục thống kê vừa qua không mấy khả quan đang đặt ra cho các Nhà quản lý bài toán khó. Đặc biệt con số các Doanh nghiệp lâm vào khó khăn, phá sản đang ngày một tăng và chỉ số GDP đã có dấu hiệu suy giảm. Dù chưa thể qua lạc quan với CPI nhưng áp lực về việc cần phải hạ nhanh Lãi suất là không nhỏ bởi nếu tiếp tục thắt chặt và lãi suất quá cao như hiện nay, Kinh tế VN có lẽ thực sự gặp nguy. Trong buổi tham vấn các Chuyên gia Kinh tế vừa qua của Chính Phủ, sự đồng thuận về một chính sách nhằm giảm ngay Lãi suất được thể hiện rõ. Vì thế, cả nước đang mong chờ chính sách cụ thể trong động thái hạ nhiệt lãi suất mà Tân Thông đốc NHNN theo đuổi. Tháng 9 đang đến rất gần, và gói giải pháp sẽ được NHNN thảo luận cùng với 16 ngân hàng lớn trước khi đưa ra tham khảo toàn ngành vào đầu Tháng 9 này.
-       Hạn mức tín dụng mà Chính phủ đề ra theo Nghị Quyết 11/CP là tăng trưởng 20% cho cả năm, đến nay mới thực hiện được 7%-8%, vẫn còn dư địa nhiều. NHNN hoàn toàn có thể lên một chương trình cấp vốn giá rẻ cho các NHTM, kèm theo các điều kiện chặt chẽ để nguồn tín dụng ấy không chảy vào lĩnh vực phi sản xuất, đầu cơ, gây lạm phát.
-       Kênh đầu tư Chứng khoán đang nổi lên : Các kênh như USD, BĐS và  Vàng khó có cơ hội tăng trưởng. Trong khi USD và BĐS đứng im từ khá lâu thì Vàng lại đang “điên loạn” với cơn sốt vừa qua. Hẳn các NĐT sẽ không còn dễ dãi mua Vàng như thế khi cơn sốc đó chưa qua dù ràng hối lại đã muộn vì bán cắt lỗ quá sớm. Hơn nữa Vàng đã được đưa vào diện bị quản lý do bất cập và tác động không tốt tới hoạt động điều hành chính sách tiền tệ Quốc gia.
-       Lộ trình về Margin đang được UBCK triển khai cũng sẽ áp dụng vào cuối tháng 8, đầu tháng 9. Điều này tạo điều kiện thuận lợi hơn cho cả NĐT lẫn Công ty Chứng khoán cung cấp các dịch vụ. Liệu đây có phải là sự đồng thuận?
-       Chính phủ và Quốc hội đã nhất trí giảm thuế thu nhập cá nhân và thu nhập từ Chứng khoán từ 01/8/2011 đến 31/12/2011. Dù mức giảm không lớn và mang nhiều tính khích lệ, thế nhưng trong bối cảnh kinh tế khó khăn hiện nay, lạm phát, giá cả tăng cao ảnh hưởng lớn tới đời sống nhân dân thì giảm thuế cá nhân là cần thiết.

Yếu tố địa lợi :  có thể được hiểu là “giá Cổ phiếu” đã hợp lý và “ tiềm lực” cho một cơn sóng.
-       Đáy thị trường đã được thiết lập? :  Tính từ đỉnh sóng Tháng 10/2009 đến nay, Vnindex chủ yếu đi xuống, từ mức đỉnh hơn 600 điểm, về mức hiện tại là 400,7 điểm (chốt phiên ngày 19/8). Nếu bỏ qua các “siêu khủng long” như VIC – MSN – BVH – VPL … thì Vnindex thực tế chỉ còn lại mức khoảng 280 điểm. Xem xét một cách chuẩn mực hơn thì HNINDEX mới cho thấy con số rõ ràng, từ mức đỉnh cùng thời gian đó là 210 điểm và hiện tại là 68 điểm, HNXINDEX đã mất đi gần 70% giá trị. Con số này có vẻ như đúng với một loạt các Cổ phiếu Bulechips. Tuy nhiên, ngay sau khi lập đáy mới tại vùng 65 điểm, HNXINDEX đã trụ vững sau nhiều phiên bị bán mạnh. Nó đang ngày càng khẳng định vùng đáy mà TTCK Việt Nam thiết lập.
-       Hiện nay giá Cổ phiếu được đánh giá là quá rẻ:  Lấy mốc giá ngày 18/8/2011, theo tính toán thì có 205/285 cổ phiếu niêm yết tại sàn TP.HCM và 309/388 cổ phiếu niêm yết tại sàn Hà Nội có thị giá dưới giá trị sổ sách. 121/285 cổ phiếu niêm yết tại sàn TP.HCM và 226/388 cổ phiếu niêm yết tại sàn Hà Nội có giá dưới mệnh giá 10.000 đồng. Chỉ số P/E trên HNX thấp nhất lịch sử, thấp hơn cả mức đáy hồi  Tháng 2/2009 với trung bình toàn thị trường khoảng 6,5 lần. Còn tại sàn HOSE: loại bỏ BVH, MSN, VIC, VPL, HAG, FPT sẽ có trung bình P/E < 8.1 lần. Với mức P/E như hiện tại, Cổ phiếu tại Việt Nam được đánh giá là rẻ nhất trong khối Thị trường mới nổi.   Chỉ số P/B cũng vậy, tại HNX: P/B hiện tại chỉ khoảng 1,x trong khi lịch sử tháng 2/2009 thì P/B cũng là 1.2-1.3x. Còn tại HOSE: P/B 1,3x § 2 sàn hiện có 339 công ty có P/B <1 chiếm ½ số DN niêm yết. Việc giá cổ phiếu giảm mạnh là cơ hội mua một số Doanh Nghiệp tốt, đã khẳng định vị thế trên thị trường ở các mức giá thấp hơn giá góp vốn thành lập một doanh nghiệp mới. Điều này cũng thể hiện rõ các động thái gom mua và thâu tóm của các Nhà đầu tư lớn mà vụ STB là điển hình. Hay như chính các thành viên nhà STB mua gom hàng loạt Cổ phiếu ngành mía đường như SBT – NHS – BHS.
-       Lợi tức (dividend yield ) từ Cổ phiếu so với Lãi suất :  nhiều mã CP cho dividend yield hơn 15%/năm thậm chí hơn 20%/năm. Trong nhóm này có các CP ngân hàng, các DN sản xuất hàng tiêu dùng, các Doanh nghiêp chế biến Thủy sản có hoạt động SXKD ổn định và dòng tiền tốt  với thị giá thấp quanh 10.000đ/cp. Trong lịch sử chỉ có thời điểm đầu 2006 và 2/2009 thị trường mới xuất hiện các cơ hội cho dividend yield cao như hiện nay. Nếu so sánh với lãi suất tiền gửi Tiết kiệm thì tính cả mức cao nhất mà Ngân hàng huy động thì Trung bình năm chỉ khoảng 15-16%. Và một điều nữa là để hưởng được mức lãi suất đó thì thời gian gửi phải là đủ 12 tháng. Còn về Cổ phiếu thời gian trên đã được lược bớt ít nhất là 4-5 tháng.
-       Thanh khoản quá thấp : Thanh khoản sụt giảm mạnh, KLGD bình quân Tháng 7 chủ yếu đạt mức 13-15 triệu/phiên. Tuy nhiên, quan sát giao dịch, có thể nhận thấy rõ mức thanh khoản hiện tại báo hiệu về sự giảm cung hơn là giảm cầu. Trong vài phiên đầu Tháng 8, bên bán chủ động bán mạnh thì lực Cầu xuất hiện giúp cho Thanh khoản được cải thiện.
-       Dòng tiền mạnh: Theo dõi các Báo cáo Tài chính thì tư Quý 1 và đầu Quý 2 nhiều Công ty Chứng khoán lớn đã có động thái bán ra Cổ phiếu và hiện nắm giữ lượng tiền mặt tương đối lớn. Tại nhiều quỹ cũng như nhiều cá nhân lớn, dòng tiền này chủ yếu vẫn ở dạng gửi Tiết kiệm ngắn hạn và hẳn sẽ quay trở lại sau một thời gian quá dài nghỉ ngơi trong Tài khoản các ngân hàng, đặc biệt khi mà Lãi suất sẽ hạ nhiệt và việc UBCK cho phép triển khai Margin thì sẽ là nguồn cho vay lớn tới NĐT. Một tín hiệu nữa là dòng tiền bắt đầu nộp ròng vào tài khoản trong khoảng 1 tuần trở lại đây. Điều này thường xảy ra khi thị trường suy giảm mạnh và tạo đáy.
-       Hoạt động mua lại của “bán khống” : Khi thị trường giảm điểm, hoạt động bán khống nở rộ. Đây chính là lực lượng hoạt động tích cực nhất trong thời gian vừa qua. Cung trước thì Cầu sau, đây sẽ là nguồn Cầu lớn cho thị trường, bởi khi mua lại một khối lượng lớn sẽ không đơn giản trong bối cảnh thanh khoản khô kiệt hiện nay.
-       Cổ đông nội bộ, cổ đông lớn, và các Doanh nghiệp đăng ký mua vào: và thực hiện mua vào đang ngày càng phổ biến. Điều này khẳng định giá Cổ phiếu đã về mức hấp dẫn đối với các nhóm cổ đông trên, bởi hơn ai hết họ là người biết rõ nhất giá trị của Doanh nghiệp. Đây sẽ là điểm tựa vững chắc cho niềm tin quay trở lại thị trường.
-       Nhà đầu tư nước ngoài chờ thời : có vẻ như NĐTNN có xu hướng bán ròng thời gian gần đây do lo ngại về nền kinh tế toàn cầu. Các mã được họ mua tập trung lại chỉ có STB – FPT. Nếu xem xét lại thời điểm đáy Tháng 2/2009, NĐTNN bán ròng cắt lỗ mạnh mẽ cũng do lo ngại sự đổ vỡ của nền Kinh tế thế giới. Kích hoạt cho xu hướng lên ban đầu khi vĩ mô còn rất xấu vẫn là NĐT trong nước và NĐTNN chỉ mua lại khi vĩ mô đã ổn định lại. Sự quan tâm của NĐTNN là khá lớn. Theo như Tiết lộ của các Công ty Chứng khoán lớn như HSC, Thăng Long và KIMENG thì hiện có khá nhiều NĐTNN đã mở Tài khoản và đang chờ đợi để bắt đầu mua Cổ phiếu.
Thiên thời, địa lợi đã đủ vậy nhân đã hòa:  Nhân hòa là mọi người đều nhất trí, ủng hộ. Trong TTCK được hiểu là niềm tin vào thị trường. Vậy Niềm tin đã quay trở lại. 

Lướt qua trang vneconomy.vn và Vietstock.vn và để ý thấy mục "THĂM DÒ Ý KIẾN". Vào mục kết quả có được như sau :

 Trang www.vneconomy.vn 


Trang www.vietstock.vn  

Hai nguồn trên không nói lên được tất cả nhưng nó cũng chứng minh được phần nào rằng : Có vẻ như tâm lý thì đã thấy bớt bi quan và bắt đầu quan tâm hơn tới TTCK.
Thị trường đã có được 3 phiên tăng điểm, mức thanh khoản tăng đột biến gấp 2-3 lần so với thời điểm tháng 7 và đầu tháng 8. Kết thúc phiên ngày 22/8/2011, Hnxindex đạt 69,92 điểm và Vnindex đạt 406.03 điểm. Tâm lý Nhà đầu tư đang tin tưởng rằng phía trước là con sóng và đáy thị trường đang gần đâu đây. Dù các NĐT có lạc quan ra sao với VN-Index do những tin tức tích cực mới xuất hiện, thì cũng cần xác định động lực chính của mỗi xu hướng thị trường là triển vọng kinh tế vĩ mô hoặc những động thái tích cực. TTCK là thị trường của Niềm tin và khi Thiên thời địa lợi đã hội tụ đủ thì Nhân hòa liệu có đến.

Thứ Sáu, 19 tháng 8, 2011

Cơn điên của Vàng - Làm gì?

Vàng sáng hôm nay (19/8) đạt đến ngưỡng không tưởng 1.865,8$/ounce. Điều này xảy ra khi tối qua TTCK Mỹ đổ sụp lần thứ 2 trong tháng với mức sụt giảm mạnh. DJ mất đi 3,68%, NASDAQ mất 5.22% , S&P 500 mất đi : 4,46%. Sự lo lắng về nợ công khu vực EURO và lạm phát làm cho NĐT thaoas chạy khỏi các loại hàng rủi ro cao như Cô phiếu để sang mua Vàng.

Vậy Vàng còn lên đến bao nhiêu??? Có mấy ý này cần để ý :
- Giá Vàng lên cao bắt đầu từ cuối 2008 khi mà CP Mỹ tuyên bố về gói QE1 và hạ lãi suất xuống mức thấp kỷ lục và duy trì đến nay.
- Năm 2010, Mỹ tiếp tục gói QE2 thứ 2 trị giá 600 tỷ USD đến thời hạn Tháng 6/2011
- Ngày 11  tháng 8/2011 vừa qua, FED tuyên bố tiếp tục duy trì lãi suất thấp kỷ lục. Đây tiếp tục là động thái của đồng đôla rẻ. Và đồng đôla rẻ sẽ tiếp tục hoành hành trên nhiều mặt hàng khác nhau.
- Tháng 8/2011 : S&P hạ bậc tín nhiệm của Mỹ từ AAA xuống AA+ (lần đầu tiên trong lịch sử).
- Hàng loạt các Ngân hàng TW đua nhau mua vào Vàng với trữ lượng lớn.
- các Quý Tín Thác thu gom Vàng rất mạnh tay. Tính đến T8/2011 số lượng vàng của các quỹ lên đến ....
- Những đồn đoán về việc Mỹ sẽ tung ra QE3 + tuyên bố giữ LS thấp đến tận 2013 của FED.

Đây chính là những yếu tố cơ bản làm Vàng tăng giá liên tục.
Tuy nhiên điều này lại gợi nhớ đến "cơn điên giá vàng năm 1970". Khi mà Mỹ khủng hoảng thực sự và kiệt quệ sau chiến tranh VN. Theo đó giá vàng tăng vọt lên mức 850 USD/ounce và sau đó giảm tới 65% trong 2 năm.

Thập niên 1970, nhiều yếu tố đã đẩy giá vàng xuống. Ở thời điểm đó, các Ngân hàng Trung ương đẩy mạnh bán vàng ra tuy nhiên rủi ro đối với kinh tế toàn cầu khi đó không tồn tại.
Những yếu tố mới hiện nay liên quan đến động thái mua vàng của các Ngân hàng Trung ương và kinh tế toàn cầu sẽ hạn chế đà giảm của giá vàng khi điều này xảy ra. Nếu tính theo tỷ lệ phần trăm, mức tăng giá hiện nay của vàng không thể được so sánh với thời kỳ thập niên 1970.
Mức thay đổi đó một phần có nguyên nhân từ việc hệ thống tỷ giá cố định Bretton Woods đã chấm dứt vào năm 1971, đồng USD không còn neo chặt với giá vàng, trước đó đồng USD phải chịu mức giá cố định 35 USD/ounce.
Làn sóng bán vàng tăng cao khi lãi suất cơ bản tăng, chính sách tiền tệ  thắt chặt vào đầu thập niên 1980. Sau khi giảm tới 2/3 so với mức đỉnh cao, giá vàng dao động quanh mức 300 USD/ounce cho đến khi đợt tăng giá tiếp theo bắt đầu vào năm 2000.
Trong thời kỳ kinh tế bất ổn, biến động khó lường, vàng thường được coi như công cụ đầu tư tốt khi các đồng nội tệ suy yếu và phòng ngừa lạm phát. Lãi suất cơ bản thấp gần 0%, đồng USD yếu, thâm hụt ngân sách Mỹ tăng cao, lo lắng về lạm phát đẩy nhà đầu tư tìm đến vàng.
Ông Jeffrey Frankel, chuyên gia kinh tế học thuộc đại học Harvard - Mỹ, cho rằng chính sách tiền tệ lỏng lẻo và lãi suất thấp là điểm tương đồng của thời kỳ thập niên 1970 và thời điểm 9 năm vừa qua.
Hai yếu tố đó ở cả thập niên 1970 và hiện nay dẫn đến đồng USD yếu. Thế nhưng khi lãi suất cơ bản tăng và chính phủ hạn chế chi tiêu, đà tăng giá của vàng sẽ bị hãm lại giống như thời kỳ thập niên 1970.
Chuyên gia phân tích thị trường thuộc ngân hàng HSBC, ông James Steel nhận xét: “Tôi cho rằng chính sách thắt chặt sẽ mang lại ảnh hưởng tương tự lần này. Đó là hồi chuông báo tử cho đà tăng của giá vàng nhưng hiện chưa hề có dấu hiệu nào cho việc này”.
Rất ít chuyên gia cho rằng giá vàng có thể tăng với tốc độ chóng mặt y như thời kỳ thập niên 1980, vì với mức độ tăng như vậy, giá vàng có thể  lên 7.000 USD/ounce. Nhìn chung các chuyên gia dự đoán giá vàng lên cao nhất cũng sẽ ở mức từ 1.200 USD/ounce cho đến 2.000 USD/ounce.
Tuy nhiên sự khác biệt giữa hai thời kỳ trên khiến người ta có thể lạc quan về tính ổn định của đà tăng hiện tại của giá vàng. Hiện tại, lạm phát vẫn tồn tại, chính sách tiền tệ nới lỏng, nền kinh tế sẽ có đà để phát triển, lạm phát sẽ dần tăng thêm, tất cả những yếu tố trên sẽ giúp giá vàng tăng.
Bà Linda Yueh, chuyên gia kinh tế tại Oxford University, nhận xét: “Không giống thập niên 1970, hiện nay áp lực lạm phát chưa cao và thế giới không chịu ảnh hưởng từ cú sốc dầu mỏ. Thay vào đó, áp lực lạm phát hiện nay chủ yếu đến từ các chính sách kích cầu và kế hoạch giải cứu các ngân hàng”.
Ông Michael Lewis, chuyên gia phân tích về thị trường hàng hóa tại Deustche Bank, nhận xét nhiều chính phủ có thể không tránh được lạm phát và trong bối cảnh thâm hụt ngân sách tăng cao, họ muốn dùng vàng để ngăn rủi ro đó.
Yếu tố khác có thể khiến giá vàng tăng hay ít nhất không giảm sâu là hiện nay điều kiện đầu tư vàng của nhà đầu tư đã thuận lợi hơn rất nhiều. Năm 2003, quỹ đầu tư vàng vật chất ETF đã kinh doanh, lượng vàng nắm giữ ở thời điểm 30/10 là khoảng 1.738 tấn, con số này còn cao hơn dự trữ vàng của bất kỳ Ngân hàng Trung ương nào trên thế giới.
Năm nay, các chuyên gia phân tích cho rằng Ngân hàng Trung ương các nước sẽ là đối tượng mua ròng vàng lần đầu tiên trong 20 năm.


VÀNG SẼ CHO TÍN HIỆU GIẢM MẠNH KHI NÀO ĐỒNG USD PHỤC HỒI VÀ VẤN ĐỀ KINH TẾ EURO KHẢ QUAN HƠN.
KHI TTCKK GIẢM VỀ NGƯỠNG AN TOÀN SẼ HẤP THỤ TIỀN CHẢY SANG VÀ VÀNG SẼ ĐỨNG GIÁ.

Thứ Tư, 10 tháng 8, 2011

Birth of the Bull - Khai sinh của thị trường giá lên - 10/8/2011

Birth of the Bull - Khai sinh của thị trường giá lên
(Vietstock) - Birth of the Bull biểu thị sự tích lũy cho một chu kỳ hồi phục mới của thị trường, còn Light of Twilight là khoảng lặng trước khi thị trường bắt đầu suy giảm mạnh.



I. Tính chất của vùng đáy (market bottom)
Birth of the Bull mô tả một tình trạng của thị trường như là bức tranh tương phản hoàn toàn với Light of Twilight (Ánh sáng của hoàng hôn – Báo cáo mà chúng tôi phát hành vào đầu tháng 11/2009). Birth of the Bull biểu thị sự tích lũy cho một chu kỳ hồi phục mới của thị trường, còn Light of Twilight là khoảng lặng trước khi thị trường bắt đầu suy giảm mạnh.
Chúng ta hãy nhớ lại giai đoạn giữa tháng 10/2009 đến đầu tháng 11/2009. Khi đó, thị trường giá lên (bull market) đang rất mạnh với những tín hiệu mua dài hạn xuất hiện trước đó, các thông tin lạc quan về nền kinh tế khá phổ biến, tâm lý nhà đầu tư rất hưng phấn, thanh khoản dồi dào và chỉ có vài đợt suy giảm không đáng kể.
Chỉ cần đảo ngược các tính chất đó, chúng ta sẽ có được tình trạng của thị trường Việt Nam trong giai đoạn hiện nay: tin xấu tràn ngập, tâm lý bi quan phổ biến, thanh khoản cạn kiệt và phục hồi yếu ớt. Điều thú vị là chúng gần như trùng khớp với những đặc điểm của đáy thị trường theo lý thuyết phân tích kỹ thuật.
Tin xấu tràn ngập
Tại vùng đáy luôn tràn ngập tin xấu, đây là điều được hầu hết mọi người công nhận. Trong giai đoạn vừa qua các phương tiện truyền thông đã mổ xẻ và phơi bày gần như tất cả những điểm yếu của nền kinh tế Việt Nam: đầu tư công chưa hiệu quả, nguy cơ bong bóng bất động sản, nợ xấu ngân hàng, lạm phát đình trệ, thất nghiệp gia tăng... cũng như các nguy cơ của nền kinh tế thế giới: khủng hoảng nợ công, lạm phát...
Tuy nhiên, có một sự thật hiển nhiên là nếu như không có tin xấu thì sẽ chẳng bao giờ có những đợt suy giảm mạnh và kéo dài trong suốt gần 2 năm qua. Nếu không có sự đóng băng của thị trường bất động sản cũng như sự gia tăng lãi suất cao trong giai đoạn vừa qua thì liệu các cổ phiếu thuộc ngành này có sụt giảm đến 70% – 80% giá trị thị trường?
Một yếu tố mà Charles H. Dow đề cập về giai đoạn tích tụ của thị trường là các báo cáo tài chính của hầu hết các doanh nghiệp vẫn phản ánh tình hình tồi tệ trong giai đoạn này của thị trường. Chúng tôi cho rằng đây chính là một trong những điểm nhấn quan trọng nhất cần chú ý trong giai đọan hiện nay.
Sự dịch chuyển của thị trường chứng khoán dựa trên kỳ vọng của giới đầu tư. Sự kỳ vọng này thường có xu hướng chạy trước tình trạng thực tế của nền kinh tế; nên trong nhiều trường hợp mặc dù kết quả kinh doanh của các doanh nghiệp còn xấu nhưng lực cầu của thị trường vẫn gia tăng mạnh và tạo thành một lực đỡ bên dưới cho giá cổ phiếu.
Tâm lý bi quan phổ biến
Martin J. Pring từng đề cập rằng tại những đáy lớn của thị trường, tâm lý nhà đầu tư thường rất bi quan, hay đôi khi nói một cách chính xác hơn là chán nản. Người ta thường gọi giai đoạn này với thuật ngữ kiểu như ”tích lũy để phục hồi”, ”bóng tối trước bình minh”...
Khi hàng loạt tin xấu đã được công bố thì trạng thái bão hòa bắt đầu xuất hiện. Giới đầu tư sẽ bắt đầu tự hỏi ”Liệu có điều gì khủng khiếp hơn đang chờ ta phía trước hay không?”. Nếu câu trả lời là ”Không” thì có thể sẽ dẫn đến hành động mua vào của một bộ phận nhà đầu tư trên thị trường.
Thanh khoản cạn kiệt
Thanh khoản là tấm gương phản chiếu mức độ quan tâm của giới đầu tư đến thị trường. Điều này có thể hiểu theo cả hai hướng là họ đang bi quan hoặc lạc quan. Khi cả hai thái cực này đều đạt mức cao thì thanh khoản thường lớn.
Thanh khoản cạn kiệt khi mà tâm lý của hầu hết các thành viên thị trường bắt đầu chán nản. Charles H. Dow từng mô tả tình trạng này trong lý thuyết mang tên mình như là bước chuyển trung gian giữa giai đoạn bán bắt buộc của thị trường giá xuống và giai đoạn tích tụ của thị trường giá lên.
Sự tiết cung này có thể dẫn đến những đợt phục hồi nhẹ. Sự phục hồi này không phải do lực cầu mạnh hơn mà là do bên cung không chịu bán giá thấp hơn nữa do giá cổ phiếu đã xuống đến mức thấp quá mức.
Đây không phải là một dạng tín hiệu mua bán mà là một tín hiệu cảnh báo rằng thị trường sắp đạt đáy dài hạn.

Lãi suất đạt đỉnh và bắt đầu giảm dần
Trong chính sách tiền tệ của ngân hàng nhà nước, lãi suất được sử dụng như một công cụ quan trọng để tác động vào nền kinh tế. Lãi suất phản ánh mối quan hệ cung cầu về tiền tệ và ảnh hưởng đến hầu hết các thực thể hoạt động trong nền kinh tế. Vì vậy, sự dao động của lãi suất ảnh hưởng trực tiếp đến các quyết định của cá nhân, doanh nghiệp cũng như hoạt động của các tổ chức tín dụng.
Theo Martin J. Pring, một trong những đặc điểm tối quan trọng của các vùng đáy (market bottom) là lãi suất thường đạt đỉnh và bắt đầu hạ nhiệt dần dần.
Trong vài tuần gần đây, nhiều ngân hàng thương mại đã quyết định hạ lãi suất tiền đồng (dù vẫn còn dè dặt và chưa triệt để) để tìm đầu ra cho nguồn vốn huy động. Mặt khác, theo Thống đốc Ngân hàng Nhà nước (NHNN) Nguyễn Văn Bình, ngay từ tháng 8 này, NHNN sẽ làm việc với các tổ chức tín dụng để có sự đồng thuận và giảm lãi suất cho vay.
Mặc dù việc hạ lãi suất vẫn còn dè dặt và chưa triệt để nhưng có thể được coi là một tín hiệu nhen nhóm cho một giai đoạn mới dễ thở hơn đối với các doanh nghiệp. Điều này sẽ phần nào giúp cho thị trường nhanh chóng đi vào giai đoạn phục hồi hơn.
II. Tại sao nên gia nhập trường phái đầu tư ngược trào lưu (Contrarian Investing)?
Đám đông thường sai lầm tại turning point
Khi thị trường tăng trưởng ổn định và kéo dài, các quyết định của đám đông thường chính xác. Tuy nhiên, tại những điểm ra vào quyết định, phần thưởng luôn thuộc về những người đi ngược trào lưu (contrarian).
Lý thuyết tài chính hành vi (behavioral finance) – một đối trọng của lý thuyết thị trường hiệu quả (efficient market hypothesis) – cho rằng đôi khi đi ngược lại xu thế chung của thị trường sẽ thu được lợi ích.
Lý thuyết thị trường hiệu quả của GS. Eugene Fama vốn dựa trên giả định rằng luôn tồn tại một cơ chế điều chỉnh thị trường về trạng thái hiệu quả: cơ chế kinh doanh chênh lệch giá. Khi chứng khoán (cổ phiếu, trái phiếu, options, …) không phản ánh một cách chính xác giá trị hợp lý thì sẽ tồn tại cơ hội kinh doanh chênh lệch giá cho những nhà đầu tư hợp lý (rational investors). Cơ chế điều chỉnh tự động của thị trường sẽ đưa giá cả về lại mức hợp lý. Đây là nền tảng cho rất nhiều lý thuyết định giá như MM, CAPM, Black Scholes, PPP,…
Lý thuyết tài chính hành vi chỉ ra rằng cơ chế điều chỉnh đó không phải lúc nào cũng có thể xảy ra. Những nhà đầu tư hợp lý (rational investors) không thể chiến thắng những nhà đầu tư “bất hợp lý” trong một số trường hợp và khi đó, thị trường sẽ không hiệu quả (tức là định giá quá cao hoặc quá thấp giá cổ phiếu). Điều này rất hay xảy ra tại các thị trường mới nổi với tỷ trọng các nhà đầu tư cá nhân rất lớn. Chính điều này sẽ tạo cơ hội cho các contrarian.
Giai đoạn tăng trưởng đầu tiên thường đem lại lợi nhuận lớn nhất
Nhiều nhà đầu tư cho rằng giai đoạn tăng trưởng ở giữa xu hướng là dài nhất và đem lại lợi nhuận cao nhất. Điều này chỉ đúng khi nhìn theo thang đo số học (arithmetical scale). Nếu xem xét theo thang đo logarit (logarithmic scale), câu chuyện sẽ khác.
Nếu nhìn vào chu kỳ tăng trưởng kéo dài hơn 8 tháng của thị trường Việt Nam trong năm 2009 theo thang đo logarit, chúng ta sẽ thấy rõ điều này. Đối với VN-Index, chỉ với 3 tháng đầu tiên đã chiếm đến 51% lợi nhuận của cả đợt tăng trưởng. HNX-Index thì cho kết quả còn ấn tượng hơn khi mà chỉ với 3 tháng rưỡi hồi phục đầu tiên đã chiếm đến gần 80% lợi nhuận của toàn bộ giai đọan tăng trưởng.
Rõ ràng việc bắt đáy là nguy hiểm nhưng lợi ích mang lại là rất lớn. Điều này chứng minh sự hợp lý của một trong những nguyên tắc quan trọng trong đầu tư là Nguyên tắc High Risk - High Return (HRHR).

III. Những tín hiệu nào cho thấy chúng ta đang ở gần đáy?
Tính chu kỳ của thị trường Việt Nam
Khi quan sát sự biến thiên các chỉ số thị trường như VN-Index, HNX-Index, VS 100, chúng ta có thể nhận thấy thị trường chứng khoán Việt Nam có hai đặc điểm chính như sau:
Thứ nhất, một chu kỳ giảm thường kéo dài lâu hơn một chu kỳ tăng. Đây là điều mà Robert D. Edwards & John Magee cũng đã từng đề cập đến trong các tác phẩm của mình. Điều này một phần cũng do là các mẫu hình đảo chiều ở vùng đáy thường mất nhiều thời gian để hình thành hơn là các mẫu hình ở vùng đỉnh.
Tuy có một số ngoại lệ (giai đoạn 2004 – 2007) nhưng nhìn chung đặc điểm này của Việt Nam giống với thế giới.
Thứ hai là quy luật bán tháng 4 mua tháng 8. Mặc dù có thể bị vênh khoảng vài tuần, nhưng điều này sẽ giúp ích cho những nhà đầu tư lướt sóng tìm kiếm lợi nhuận ngắn hạn.
Tại các thị trường phát triển như Mỹ, Châu Âu thì thông thường xu hướng thị trường chứng khoán suy giảm từ cuối tháng 4 đến cuối tháng 9 (”Sell in May and go away”) và tăng từ tháng 10 đến tháng 4 năm sau. Theo chu kỳ này, cuối tháng 4 là lúc để xem xét bán và tháng 8 là tháng để bắt đầu tìm kiếm đáy.
Quan sát lại các chỉ số thị trường như VS 100, VN-Index... có thể thấy tháng 8 thường là tháng tích cực đối với thị trường chứng khoán Việt Nam. Trong vòng 7 năm gần đây, thị trường đều tạo đáy và phục hồi khá mạnh trong tháng 8. Điều này khiến cho giới phân tích bắt đầu tin tưởng vào khả năng lịch sử sẽ lặp lại vào năm 2011.

Nhóm momentum bị nén rất lâu trong vùng oversold
Trong những giai đoạn thị trường giá xuống (bear market) mạnh thì nhà đầu tư phần nhiều không mua vào theo các chỉ báo thuộc nhóm dao động (momentum) vì khả năng bị vấp phải tín hiệu nhiễu (failure signal) là rất lớn.
Tuy nhiên, khi các chỉ số này đang xuống thấp đến mức gần như tối đa và duy trì trong một giai đoạn dài thì cần phải xem xét lại. Sự tích lũy dồn nén quá lâu trong vùng oversold sẽ có thể dẫn đến một sự phục hồi mạnh.
Điều đáng chú ý là các phân kỳ giá lên (bullish divergence) xuất hiện tại hầu hết các nhóm cổ phiếu chính. Điển hình như VS-Mid Cap đang có phân kỳ dương rất mạnh với Relative Strength Index theo khung thời gian (timeframe) weekly.

Sự dịch chuyển đáng ghi nhận từ nhóm trend-following
Trong giai đoạn 6 tháng trở lại đây, khoảng cách giữa đường giá của VS 100 và nhóm MA dài hạn đã được cải thiện rõ rệt. Đây chính là nền tảng để xuất hiện tín hiệu mua mạnh đáng tin cậy trong thời gian tới.
Thông thường, khi giá đột ngột tăng trưởng mạnh trở lại và không trải qua giai đoạn sideway tích lũy đủ lớn thì khả năng cho những tín hiệu nhiễu (dạng whipsaw) là rất cao. Điển hình là giai đoạn tháng 12/2010.
Với giai đoạn điều chỉnh, tích lũy khối lượng và đi ngang kéo dài gần 2 tháng như vừa qua, nhiều khả năng giá sẽ cho các tín hiệu mua mạnh và ổn định trong giai đoạn cuối năm.

Góc nhìn Market Breadth
Các chỉ số độ rộng thị trường (Market Breadth) cung cấp cho cái nhìn sâu sắc về tình trạng thị trường hiện tại nhờ vào việc đo lường mức độ dịch chuyển lên xuống của thị trường trong điều kiện có bao nhiêu cổ phiếu đi theo một chiều hướng lên hoặc xuống.
Quan sát sự tương quan giữa VS-Arms VN với VS 100 trong vòng 2 năm gần đây, những điểm đảo chiều quan trọng (key reversal points) của thị trường đều được báo hiệu bởi sự dịch chuyển về sát mức 0 của VS-Arms VN. Điều này cho thấy, một sự dồn nén và dịch chuyển của độ rộng thị trường sẽ kéo theo sự biến động của chỉ số chung.
Hiện tại, chỉ số này đang ở rất gần mức 0 và VS 100 cũng đang hình thành cây nến tuần khá tốt (Long-Legged Doji) nên khả năng có bứt phá và hồi phục trở lại là khá cao.

Mô hình Định lượng đã bắt đầu dịch chuyển theo hướng tích cực
Sau một giai đoạn khá dài liên tục duy trì tỷ trọng cổ phiếu ở mức rất thấp (dưới 20%), trong vòng khoảng 6 – 8 tuần gần đây, tỷ trọng cổ phiếu khuyến nghị trên cả hai sàn HOSE và HNX liên tục dao động ở mức từ 45% - 60%. Điều này phản ánh hai vấn đề chính:
Thứ nhất, đây là giai đoạn khá an toàn để bắt đầu thực hiện chiến lược bắt đáy (bottom-fishing) vì khả năng có thêm những đợt suy giảm mạnh bất ngờ (thrust down) mặc dù vẫn có nhưng không quá lớn vì giá cổ phiếu đã giảm có phần quá đà so với giá trị hợp lý.
Thứ hai, việc bán ra mạnh và đầu tư giá xuống phần nào tiềm ẩn rủi ro khi mà thanh khoản đang ở mức khá thấp (Never Short a Dull Market) và đã có một giai đoạn đi ngang ổn định khá lâu.
IV. Kết luận
Mặc dù việc xác định thời điểm chứng khoán sẽ thực sự bùng nổ là khó khả thi trong thời điểm hiện nay. Tuy nhiên, có nhiều dấu hiệu rõ ràng cho thấy thị trường sẽ khởi sắc trở lại vào cuối năm và việc mua vào bắt đáy với một mức độ vừa phải là không quá rủi ro và sẽ giúp tránh bị mất cơ hội trong trường hợp bứt phá bất ngờ (thrust up)

VN-Index – “Light of Twilight” - 09/11/2009


(Vietstock) - Light of Twilight (Ánh sáng của hoàng hôn) là khái niệm chúng tôi sử dụng để chỉ sự mâu thuẫn giữa các tín hiệu tăng giá ngắn hạn và giảm giá dài hạn. Các tín hiệu dài hạn có khả năng sẽ áp đảo những tín hiệu ngắn hạn.
Các indicator dài hạn đang cho sell signal
Quan sát các indicator quan trọng chúng ta đều nhận thấy một sự trái ngược giữa các tín hiệu đưa ra khi sử dụng các time-frame thời gian khác nhau. Điều này báo hiệu cho những phiên giao dịch giằng co sẽ tiếp tục diễn ra và xu hướng chung sẽ nghiêng về các tín hiệu dài hạn. Trước hết, hãy quan sát theo time-frame weekly.

MACD weekly đã cho tín hiệu bán. Một điều đáng chú ý là kể từ tháng 03/2009 đến nay, fast-line chưa từng cắt hướng xuống slow-line lần nào. Vì vậy tín hiệu này đặt ra câu hỏi liệu đây có phải là khởi đầu cho một thời kỳ sụt giảm của thị trường chứng khoán Việt Nam.
Không chỉ có MACD, ngay cả Relative Strength Index và Money Flow Index cũng đã cho sell signal vào tuần trước (30/10/2009). Đặc biệt là Relative Strength Index. Sell signal của chỉ báo này xuất hiện liên tiếp trong vòng chỉ 3 tuần. Những tín hiệu “double repo” kiểu như vậy có độ tin cậy rất cao.
Swing Trd 2 và Swing Trd 3 cũng có những tín hiệu tương tự. Dù chưa thực sự cắt nhau nhưng khoảng cách giữa hai đường này đang xích lại gần nhau một cách đáng lo ngại. Sự hội tụ này tương tự như giai đoạn tháng 4/2006, tháng 3/2007 và tháng 11/2008.
Nếu chú ý kỹ, chúng ta sẽ thấy trước khi Swing Trd 2 giao cắt với Swing Trd 3 thì Parabolic SAR sẽ cho sell signal trước. Nói cách khác, Parabolic SAR chạy nhanh hơn các đường Swing Trd khoảng 1 – 2 tuần (theo time-frame weekly). Và thực sự thì Parabolic SAR weekly đã cho sell signal. Kể từ năm 2006 đến nay, khi tín hiệu này xuất hiện thì ít nhất sẽ có 3 tuần giảm điểm xuất hiện gần đó.

Một sự báo hiệu của gần như tất cả các indicator chủ chốt (MACD, RSI, MFI, Swing Trd, Parabolic SAR...) về một đợt giảm giá trong dài hạn sắp xảy ra trong tương lai. Điều này rất đáng lưu ý vì khi tất cả các chỉ báo đều cho cùng một tín hiệu thì xác suất xảy ra hiện tượng đó sẽ rất lớn.
Simple Moving Average 200-weeks – Lực cản mạnh nhất của VN-Index trong ngắn hạn cũng như dài hạn
Sau khi đạt đến target price của Triple Top Pattern vào cuối tháng 02/2008, ba tuần sau đó VN-Index cũng phá vỡ Simple Moving Average 200-weeks. Sự kiện này chính thức đánh dấu thị trường chứng khoán Việt Nam đã rơi vào vòng xoáy giảm điểm mạnh mẽ chưa từng có trong lịch sử.
Trong hai tuần đầu tiên của tháng 10/2009, người ta tưởng chừng như Simple Moving Average 200-weeks đã bị break và chính thức chấm dứt thời kỳ suy giảm của VN-Index. Nhưng kỳ thực đó chỉ là price tails giống như tháng 04/2008 và tháng 08/2008 mà thôi. Vì vậy, nếu trong tương lai VN-Index lại chạm vào SMA 200-weeks và bật xuống thì khả năng sẽ xảy ra double test thêm một lần nữa. Lịch sử cuối năm 2008 sẽ lặp lại một lần nữa nếu điều này xảy ra.

Simple Moving Average 200-weeks chính là lực cản mạnh nhất cả về ngắn hạn và dài hạn của thị trường. VN-Index chỉ chính thức trở lại quỹ đạo tăng trưởng dài hạn nếu break được đường resistance này. Vì vậy, vùng giá 630 – 650 điểm sẽ mang tính quyết định tương lai của thị trường trong thời gian tới.
Ichimoku Kinko Hyo cũng báo hiệu thị trường giảm điểm
Quan sát trong quá khứ, cứ mỗi lần Closing price (màu đen) cắt hướng xuống Tenkan-Sen (màu hồng) sẽ báo hiệu cho một đợt suy giảm mạnh (nếu không muốn nói là khủng khiếp) của thị trường. Tín hiệu đó đã xuất hiện một lần nữa vào tuần đầu tiên của tháng 11/2009.
Điều đáng chú ý là khi độ dốc xuống hướng xuống của đường giá cao thì tín hiệu này chưa bao giờ sai kể từ khi thành lập thị trường đến nay. Có vẻ như một đợt điều chỉnh trung hạn sắp bắt đầu.

Ngắn hạn có lạc quan?
Trong những phiên sắp tới, nhiều khả năng VN-Index sẽ tiếp tục cái gọi là pull-back break-point của mẫu hình Ascending Broadening Wedge. Quá trình này có thể sẽ dừng lại tại mức 580 điểm hoặc thậm chí ngay những phiên đầu tuần sau.
Kịch bản lạc quan hơn: Nếu buy signal ngắn hạn của Parabolic SAR xuất hiện, thị trường có thể đạt đến vùng 630 – 650 điểm. Nhưng tại đây VN-Index sẽ phải đối mặt với lực cản rất lớn từ SMA 200-weeks. Xác suất vượt qua mức cản này khá thấp khi mà hầu hết các indicator chủ chốt đều đã cho sell signal dài hạn.

Mức thoái lùi gần nhất: 480 – 500 điểm
Vùng này được xác định bởi Internal trendline và Fibonacci Retracement 38.2% dài hạn. Theo kinh nghiệm phân tích, khi đường giá trên 30 độ sẽ thoái lùi về 38.2% nên đây có thể là điểm dừng của sóng a thuộc sóng 2 lớn. Nhưng đây có lẽ chưa phải là điểm dừng của toàn bộ sóng 2 lớn. Mức chống đỡ thực sự vững chắc nằm ở vùng 380 – 400 điểm chứ không phải 480 – 500. Lý do là khi có sự hội tụ của quá nhiều yếu tố dài hạn như thời điểm này thì mức Fibonacci Retracement 38.2% không đủ vững chắc để chống đỡ.
Dựa vào những phân tích trên, lời khuyên cho các nhà đầu tư là nên duy trì một tỷ lệ tiền mặt cao trong tài khoản để phòng ngừa những rủi ro quá lớn có thể xảy ra.
HNX-Index – Đang đi vào downtrend
Sự hội tụ mạnh giữa MACD DEMA và Williams’ %R
Williams’ %R là một trong những indicator hiếm hoi cho ra những tín hiệu khá chính xác để dự báo sự biến thiên của HNX-Index. Đặc biệt, những tín hiệu mà chỉ báo này đưa ra sẽ càng mạnh khi có sự hội tụ của MACD DEMA.

Williams’ %R đã cắt hướng xuống đường -20.000. Sell signal này đã xuất hiện vào tuần trước nhưng chưa thực sự chắc chắn vì đó có thể là một Signal Failure như hồi đầu tháng 4/2009. Nhưng trong tuần này, Signal Failure có thể loại bỏ nhờ vào sell signal của MACD DEMA cộng hưởng. Với hai tín hiệu này có thể nói rằng xác suấtHNX-Index rơi vào downtrend là rất lớn.
Sẽ giằng co mạnh quanh mốc 200 điểm
Đây không chỉ là mốc tâm lý mà còn là mốc kỹ thuật. Tháng 4/2008, tháng 9/2008 và tháng 6/2009, HNX-Index đều tiến sát ngưỡng này và dội ngược trở lại rất mạnh. Tưởng chừng như chỉ số này đã trở lại quỹ đạo tăng trưởng dài hạn khi vượt 200 điểm một cách dễ dàng vào ngày 14/10/2009. Nhưng đó là do sự hưng phấn quá mức của thị trường tạo ra.

Lực đỡ duy nhất của thị trường hiện nay là Mid-term Support Trendline. Cậu hỏi đặt ra là liệu đường này có đủ mạnh để tiếp tục chống đỡ cho HNX-Index. Câu trả lời nhiều khả năng là không. Có thể đợt tăng sắp tới sẽ là đợt tăng cuối cùng của HNX-Index. Kết luận này dựa trên tín hiệu Triple Repo của PS Long Sell Short Sell-5 Day theo time-frame weekly.

Tín hiệu này đã xuất hiện tổng cộng 3 lần tính trong quá khứ. Tín hiệu lần này có những điểm rất giống với tháng 09/2008. Khi đó cũng ít người nghĩ rằng Mid-term Support Trendline sẽ bị break vì độ dốc của nó khá thấp (dưới 30 độ). Nhưng cuối cùng nó vẫn bị break và mở ra một thời kỳ điều chỉnh năng nề nhất vào cuối năm 2008. Các tín hiệu lần này cũng tương tự như vậy.
Dù không quá bi quan nhưng xác suất Mid-term Support Trendline bị break trong những tuần tới là khá cao.
Phân tích một số bluechips có tương quan mạnh với thị trường
SSI – Bearish Divergence báo hiệu cho một đợt điều chỉnh sâu trong tương lai
Một tín hiệu bearish divergence gần như hoàn hảo của Chande Momentum Oscillator đã hình thành. Ba đỉnh thấp hơn của CMO trùng khớp với ba đỉnh cao hơn của đường giá. Tín hiệu này mất gần 6 tháng để hình thành. Vì vậy, sự điều chỉnh mà nó báo hiệu sẽ kéo dài khá lâu. Có lẽ ít nhất cũng phải 1 – 2 tháng.

EXIT Swing Signal cũng cho tín hiệu bi quan. Khi sell signal của indicator này xuất hiện sẽ kéo theo sell signal của Dispaced Moving Average ngay sau đó. Double signal của hai chỉ báo sẽ khẳng định một downtrend.
STB – Simple Moving Average 50-days bị break
Simple Moving Average 50-days là một chỉ báo có ý nghĩa đặc biệt đối với STB. Các điểm kháng cự - chống đỡ chạy rất chính xác. Sau ba lần test thành công vào tháng 03/2009, tháng 07/2009 và đầu tháng 10/2009, SMA 50-days đã bị bẽ gãy. Đây là một tín hiệu rất xấu cho những ai đang còn nắm giữ STB. Vì không chỉ là một đường support hiệu quả mà SMA 50-days còn là một đường resistance hiệu quả không kém nếu bị break.

CCI-Equis cũng đang phải đối mặt với trendline giảm giá ngắn hạn. Nhiều khả năng indicator này sẽ quay đầu tại đường zero-base.
KLS – Không còn tồn tại khái niệm vùng giá an toàn
Lý do có sự khẳng định như trên là từ Directional System. Hai đường +DI và –DI sau gần 4 tháng phân kỳ đã cho tín hiệu bán trở lại. Tín hiệu này càng trở nên đáng tin cậy hơn khi ADX vẫn không hề đảo chiều. Điều này chứng tỏ sự điều chỉnh trong hai tuần vừa qua không đơn thuần là một sự giật lùi mang tính kỹ thuật. Nó chính là sự khởi đầu cho một downtrend.

Thống kê và khuyến nghị
Vì view toàn thị trường rất xấu nên tạm thời không đưa ra các thống kê và khuyến nghị mua bán trong thời điểm này. Nhà đầu tư nên nắm giữ tiền mặt hơn là tham gia mua vào để bình quân giá. Việc bình quân giá trong những ngày tới sẽ làm cho nhà đầu tư suy kiệt nguồn lực tài chính. Tuy nhiên, những phân tích có thể sẽ giảm tác dụng do có nhiều cổ phiếu niêm yết. Các cổ phiếu này có một mức tỷ trọng vốn hóa thị trường lớn gần đây như EIBMSN sẽ làm cho VN-Index không thể giảm quá sâu.

Thứ Ba, 9 tháng 8, 2011

Chóng mặt với cảnh mua bán, vàng tại Hà Nội

NHÌN THẾ NÀY LLẠI MƠ VỀ MỘT NGÀY CỦA CHỨNG KHOÁN. KHI NIỀM TIN CÒN TĂNG GIÁ TRỞ LẠI


Sáng nay, cửa hàng Bảo Tín Minh Châu (Hà Nội) đông nghịt người đến giao dịch khiến giao thông khu vực này tắc nghẽn.
Cửa hàng hết vàng bán. Trên bảng giá, các con số liên tục thay đổi và tăng đến mức chóng mặt.
Image
Tất cả các quầy bán vàng miếng tại Bảo tín Minh Châu đông nghịt người xếp hàng chờ giao dịch sáng nay.
Image
Suốt buổi sáng, giá vàng thay đổi và tăng từng phút. Chỉ mới lúc 11h giá bán ra là 4.595.000 đồng /chỉ.
Image
Tuy nhiên đến 12h trưa, giá đã là 46,3 triệu đồng/lượng. Khách hàng cứ nhìn bảng điện tử thay đổi liên tục mà chỉ chỏ.
Image
Nhiều người mang vàng đến bán còn đắn đo đứng chờ ngoài cửa hy vọng sẽ bán được giá cao hơn nữa.
Image
Tuy nhiên, lượng người mua vẫn chiếm đa số so với người đi bán tại hàng vàng Bảo Tín Minh Châu trên phố Trần Nhân Tông.
Image
Nhân viên hàng vàng liên tục vận chuyển tiền mặt ra khỏi cửa sau khi giao dịch.
Image
Khách hàng đến mua vàng không có ngay và nhận được phiếu hẹn đến lấy vàng vào buổi chiều.
Image
Việc vàng tăng lên từng phút khiến nhiều người phân vân không biết quyết định mua hay bán lúc này.
Image
Chị Định thấy giá tăng liên tục sung sướng báo cho người thân. Sáng nay chị mang vàng đi bán, nhưng không giao dịch ngay mà đứng thăm dò và chờ giá còn lên nữa.
Image
Nhiều người khác lộ rõ vẻ mặt căng thẳng.
Image
Một phụ nữ vừa bán vàng và ra cửa với bọc tiền to.
Image
Giao thông khu vực này nhiều lần tắc nghẽn vì lượng người tìm đến giao dịch vàng đông nghịt

Thứ Ba, 2 tháng 8, 2011

Thủ tướng nêu nhiệm vụ của Chính phủ nhiệm kỳ mới

Sau khi được Quốc hội khóa XIII tín nhiệm bầu tiếp tục giữ cương vị Người đứng đầu Chính phủ, đồng chí Nguyễn Tấn Dũng, Ủy viên Bộ Chính trị, Thủ tướng Chính phủ đã nêu nhiệm vụ trọng tâm của Chính phủ nhiệm kỳ 2011 - 2016 trong bài viết của ông dưới đây.
THỰC HIỆN TỐT 3 KHÂU ĐỘT PHÁ CHIẾN LƯỢC
MÀ ĐẠI HỘI ĐẢNG TOÀN QUỐC LẦN THỨ XI ĐỀ RA
LÀ NHIỆM VỤ TRỌNG TÂM CỦA CHÍNH PHỦ NHIỆM KỲ 2011 - 2016
Nguyễn Tấn Dũng
Ủy viên Bộ Chính trị, Thủ tướng Chính phủ
Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng
 
Đại hội toàn quốc lần thứ XI của Đảng đã đề ra Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2011 - 2020 với mục tiêu tổng quát là "Phấn đấu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại; chính trị - xã hội ổn định, dân chủ, kỷ cương, đồng thuận; đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được nâng lên rõ rệt; độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ được giữ vững; vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế tiếp tục được nâng lên; tạo tiền đề vững chắc để phát triển cao hơn trong giai đoạn sau". 
Chiến lược đề ra 5 quan điểm, 12 định hướng phát triển, hình thành một hệ thống đồng bộ các mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp lớn trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, văn hoá, xã hội, môi trường, quốc phòng, an ninh, đối ngoại... như một chỉnh thể thống nhất, bảo đảm phát triển bền vững. Để tạo tiền đề thực hiện thành công các mục tiêu, nhiệm vụ này, Chiến lược xác định phải đột phá vào ba khâu yếu, hiện đang là những điểm nghẽn, cản trở sự phát triển và nếu giải quyết tốt các khâu này sẽ tạo xung lực mới có sức lan toả mạnh, giải phóng mọi tiềm năng, khai thác có hiệu quả các nguồn lực cho phát triển nhanh và bền vững. 
I
Xác định đúng các đột phá chiến lược - bài học từ tiến trình đổi mới
Vào cuối những năm 70, đầu những năm 80 của thế kỷ trước, đất nước ta đứng trước mâu thuẫn lớn giữa tiềm năng và yêu cầu phát triển với thực trạng khủng hoảng kinh tế xã hội kéo dài, đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn, các ngành sản xuất trì trệ. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đã đề ra đường lối đổi mới, trong đó quan trọng nhất là đổi mới tư duy mà trước hết là tư duy kinh tế. Trên nền tảng đổi mới tư duy kinh tế, chúng ta đã xóa bỏ cơ chế kế hoạch hóa tập trung, doanh nghiệp nhà nước và hợp tác xã độc quyền kinh doanh theo kiểu bao cấp, chuyển sang vận hành cơ chế kinh tế thị trường với các doanh nghiệp thuộc nhiều thành phần kinh tế, nhiều hình thức sở hữu khác nhau tham gia kinh doanh. Nhờ đó, kinh tế phát triển sống động, đạt tốc độ tăng trưởng cao, đời sống nhân dân từng bước được cải thiện. Sự chuyển đổi cơ chế nêu trên đã giải quyết được mâu thuẫn trong sự phát triển của đất nước và thực sự là một đột phá chiến lược. Từ đột phá có tính mở đường này, chúng ta đã thực hiện thành công Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000, đưa đất nước thoát ra khỏi khủng hoảng, tạo đà cho bước phát triển mới, cao hơn.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX thông qua chiến lược phát triển kinh tế xã hội giai đoạn 2001 - 2010 với ba khâu đột phá: (i) Xây dựng đồng bộ thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa mà trọng tâm là đổi mới cơ chế, chính sách nhằm giải phóng triệt để lực lượng sản xuất, mở rộng thị trường trong và ngoài nước; (ii) Tạo bước chuyển mạnh về phát triển nguồn nhân lực, trọng tâm là giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ; (iii) Đổi mới tổ chức bộ máy và phương thức hoạt động của hệ thống chính trị, trọng tâm là cải cách hành chính, xây dựng bộ máy nhà nước trong sạch, vững mạnh.
Sau 10 năm triển khai thực hiện, chúng ta đã đạt được những thành tựu quan trọng. Đất nước thoát khỏi tình trạng nước nghèo, kém phát triển, bước vào nhóm nước đang phát triển có thu nhập trung bình. Thể chế kinh tế thị trường cơ bản được hình thành, các loại thị trường từng bước phát triển thống nhất trong cả nước, gắn kết ngày càng tốt hơn với thị trường thế giới. Quy mô giáo dục và đào tạo tăng nhanh, chất lượng nguồn nhân lực có bước cải thiện đáng kể. Cải cách hành chính mà trọng tâm là cải cách thủ tục hành chính được triển khai mạnh mẽ và đạt được những kết quả tích cực, tạo thuận lợi cho người dân và doanh nghiệp trong sản xuất kinh doanh, thực hiện các giao dịch.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đã đạt được, cũng còn các hạn chế, yếu kém, đặc biệt là việc tổ chức thực hiện các khâu đột phá vẫn thiên về hướng tiệm tiến, chưa thực sự quyết liệt và thiếu đồng bộ, sức sản xuất chưa được giải phóng triệt để. Những hạn chế, yếu kém này đang cản trở sự phát triển và để đất nước phát triển nhanh, bền vững, cần phải tập trung sức giải quyết, tháo gỡ. Chính vì vậy, Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 – 2020 xác định ba khâu đột phá, gồm: (i) Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, trọng tâm là tạo lập môi trường cạnh tranh bình đẳng và cải cách hành chính; (ii) Phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao, tập trung vào việc đổi mới căn bản nền giáo dục quốc dân, gắn kết chặt chẽ phát triển nguồn nhân lực với phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ; và, (iii) Xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ, với một số công trình hiện đại, tập trung vào hệ thống giao thông và hạ tầng đô thị lớn.
II
Tập trung giải quyết các đột phá chiến lược, tạo tiền đề tái cấu trúc nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng - Nhiệm vụ trọng tâm của Chính phủ nhiệm kỳ 2011 - 2016
1. Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, trọng tâm là tạo lập môi trường cạnh tranh bình đẳng và cải cách hành chính
Yêu cầu cơ bản để thể chế kinh tế thị trường phát huy hết mặt tích cực của nó là các yếu tố của kinh tế thị trường hình thành đầy đủ, các loại thị trường phát triển đồng bộ với độ minh bạch cao, được quản lý và giám sát tốt; nhờ đó, thị trường xác lập sự cân bằng động trong phân bố nguồn lực vào các ngành sản xuất và dịch vụ theo tín hiệu thị trường, bảo đảm hiệu quả kinh tế. Thiếu các điều kiện này, thị trường không thể cho tín hiệu đúng, các nguồn lực không thể dịch chuyển thuận lợi và do đó, các chủ thể kinh doanh không thể phát huy được tiềm năng và nền kinh tế không đạt được hiệu quả. Chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2011 - 2020 xác định: Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường đồng bộ và hiện đại là tiền đề quan trọng để thúc đẩy quá trình tái cấu trúc nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng, ổn định kinh tế vĩ mô.
Một tiêu chí quan trọng đo lường sự phát triển của thể chế kinh tế thị trường là mức độ cạnh tranh trong các lĩnh vực sản xuất và dịch vụ. Cạnh tranh làm bộc lộ khả năng của các chủ thể kinh tế. Trong môi trường cạnh tranh, các doanh nghiệp tham gia thị trường buộc phải phát huy lợi thế so sánh, chuyển lợi thế so sánh thành lợi thế cạnh tranh; đồng thời, luôn tìm cách tạo lập lợi thế cạnh tranh mới nhằm không ngừng nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực, mở rộng thị trường, phát triển sản xuất kinh doanh. Đây chính là triết lý tăng trưởng mới - Tăng trưởng dựa trên sức cạnh tranh.
Nhiệm vụ đặt ra trong nhiệm kỳ 2011 - 2016 là phải tiếp tục hoàn thiện các cơ chế chính sách để các loại thị trường hàng hóa, dịch vụ, tài chính, chứng khoán, bất động sản, lao động, khoa học công nghệ được tạo lập đồng bộ và vận hành thông suốt, có tính cạnh tranh cao và gắn kết ngày càng tốt hơn với thị trường thế giới, được quản lý và giám sát hiệu quả. Quá trình tạo lập đồng bộ thể chế kinh tế thị trường theo yêu cầu trên đây phải gắn liền với việc hạn chế tối đa độc quyền kinh doanh trên các lĩnh vực sản xuất và dịch vụ, tạo lập môi trường kinh doanh bình đẳng giữa các thành phần kinh tế. Đây là hai mặt của một quá trình không thể tách rời. Phải xác định rõ những ngành nghề mà tính độc quyền còn cao để có chính sách và giải pháp phù hợp, tạo điều kiện cho khu vực tư nhân tham gia kinh doanh. Đẩy mạnh cải cách doanh nghiệp nhà nước, đặt doanh nghiệp nhà nước vào môi trường cạnh tranh bình đẳng với các thành phần kinh tế khác, loại bỏ các hình thức ưu đãi và bao cấp còn tồn tại trên thực tế; minh bạch hoạt động của doanh nghiệp nhà nước theo các tiêu chí của doanh nghiệp đăng ký trên thị trường chứng khoán. Đổi mới cơ chế thực hiện quyền chủ sở hữu nhà nước đối với doanh nghiệp nhà nước theo hướng cơ quan hoạch định chính sách không đồng thời thực hiện chức năng chủ sở hữu doanh nghiệp.
Trong điều kiện các quan hệ kinh tế đã có sự thay đổi cơ bản, toàn cầu hóa ngày càng sâu rộng, các quan hệ kinh tế ngày càng phức tạp và thay đổi khó lường, độ rủi ro và tính bất định tăng lên, không thể thực hiện có hiệu quả các yêu cầu trên đây nếu không xây dựng được một hệ thống thể chế chất lượng cao. Muốn vậy, phải cải cách mạnh mẽ nền hành chính quốc gia trên tất cả các nội dung: thể chế, tổ chức bộ máy, thủ tục hành chính và tài chính công gắn với một hệ thống phân cấp hợp lý, hiệu quả nhằm nâng cao chất lượng quản trị công - một trong những điểm yếu trong quản lý ở nước ta. Phải nâng cao tính minh bạch và khả năng dự đoán của chính sách để vừa giảm thiểu sự bất định, độ rủi ro đối với nhà đầu tư, vừa tránh đầu cơ, ngăn chặn tham nhũng và giảm các chi phí giao dịch cho doanh nghiệp. Tăng cường sự tham gia của người dân và doanh nghiệp vào quá trình xây dựng chính sách và thể chế; đề cao vai trò phản biện xã hội và trách nhiệm giải trình của các cơ quan quản lý trong việc hoạch định chính sách và đánh giá hiệu quả thực thi.
Cần thay đổi tư duy và cách tiếp cận khi xác định vai trò của nhà nước và mối quan hệ giữa nhà nước và thị trường. Phải chuyển mạnh từ nhà nước điều hành nền kinh tế sang nhà nước kiến tạo phát triển. Trong nhà nước kiến tạo phát triển, chức năng của nhà nước là xây dựng quy hoạch phát triển theo một chiến lược công nghiệp hóa hiện đại hóa đúng đắn; tạo môi trường và điều kiện cho các thành phần kinh tế phát huy mọi tiềm năng trong môi trường cạnh tranh và hội nhập quốc tế; tăng cường giám sát để phát hiện các mất cân đối có thể xảy ra, bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô và an toàn hệ thống. Chính vì vậy, Đại hội Đảng lần thứ XI xác định tạo lập môi trường cạnh tranh bình đẳng và cải cách hành chính là trọng tâm trong khâu đột phá về thể chế.
Trong quá trình hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường phải đặc biệt quan tâm đến bản chất xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế mà chúng ta xây dựng. Cần có sự nhận thức đúng rằng thị trường hoạt động theo quy luật của nó, thị trường có những mặt tiêu cực và tự nó không bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa của sự phát triển. Chức năng này phải là của Nhà nước. Nhà nước bằng quy hoạch, kế hoạch, các chính sách và công cụ điều tiết, hướng các nguồn lực vào các ngành, lĩnh vực và các vùng miền, bảo đảm tăng trưởng kinh tế gắn liền với xóa đói giảm nghèo, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; quan tâm phát triển các lĩnh vực văn hóa, xã hội hài hòa với phát triển kinh tế. Trong 5 năm tới, phải đầu tư cao hơn cho nông nghiệp nông thôn, triển khai có hiệu quả chương trình xây dựng nông thôn mới, coi trọng phát triển các lĩnh vực văn hóa, làm cho văn hóa thật sự trở thành nền tảng tinh thần của xã hội, một động lực để phát triển kinh tế. Tập trung hoàn thiện hệ thống an sinh xã hội và phúc lợi xã hội ngày càng rộng mở và hiệu quả, hỗ trợ các đối tượng dễ bị tổn thương trong nền kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế, bảo đảm mọi người dân đều được thụ hưởng thành quả của tăng trưởng.
2. Phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao gắn kết với phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ
Chúng ta đang sống trong một thời đại với ba đặc điểm kinh tế lớn chi phối sự phát triển của mỗi quốc gia. Đó là: (i) Khoa học công nghệ phát triển rất nhanh, rất mạnh, hơn bất kỳ một thời đại nào trước đó. Chính sự phát triển này tạo ra làn sóng công nghiệp hóa lần thứ ba và hình thành nền kinh tế tri thức; (ii) Toàn cầu hóa ngày càng sâu rộng, các liên kết kinh tế xuất hiện ngày càng nhiều, thúc đẩy sự phân công lao động ngày càng sâu sắc và hình thành các chuỗi giá trị toàn cầu; cạnh tranh kinh tế diễn ra ngày càng quyết liệt và mỗi quốc gia phải giành cho được ưu thế trong cuộc cạnh tranh đó; (iii) Tình trạng khan hiếm các loại nguyên liệu, năng lượng do sự cạn kiệt các nguồn tài nguyên không tái tạo được, đòi hỏi con người phải tìm kiếm các dạng nguyên liệu, năng lượng mới, bảo đảm phát triển bền vững.
Những đặc điểm nêu trên làm nổi bật vai trò ngày càng tăng của nguồn lực con người - lợi thế cạnh tranh động trong quá trình phát triển và là nhân tố làm chuyển dịch lợi thế so sánh giữa các quốc gia. Tình hình đó vừa đặt ra yêu cầu vừa tạo điều kiện cho việc thay đổi mô hình phát triển, từ chủ yếu dựa vào tăng vốn đầu tư, khai thác các tài nguyên thiên nhiên, nguồn nhân lực rẻ nhưng chất lượng thấp sang sự phát triển dựa vào các nhân tố năng suất tổng hợp bao gồm khả năng áp dụng các thành tựu mới nhất của khoa học công nghệ, chất lượng nguồn nhân lực và kỹ năng quản lý hiện đại. Chìa khóa của sự chuyển đổi, nhân tố trung tâm của quá trình này là nguồn nhân lực chất lượng cao. Chiến lược 2011 - 2020 xác định: Phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao...; gắn kết chặt chẽ phát triển nguồn nhân lực với phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ là một đột phá chiến lược, là yếu tố quyết định để cơ cấu lại nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng và là lợi thế cạnh tranh quan trọng nhất, bảo đảm cho phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững. Xét đến cùng, đây là khâu quan trọng nhất trong ba khâu đột phá, có vai trò chi phối việc thực hiện các đột phá khác, vì chính con người tạo ra và thực thi thể chế, xây dựng bộ máy, quy hoạch và phát triển kết cấu hạ tầng. Thực hiện tốt đột phá này sẽ làm tăng sức mạnh mềm của quốc gia, tạo ra sức mạnh tổng hợp, có ảnh hưởng quyết định đến việc xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ ngày càng cao trong điều kiện hội nhập kinh tế ngày càng sâu rộng - một quan điểm quan trọng mà Đại hội XI đã xác định.
Kinh nghiệm của các nước trên thế giới cho thấy quốc gia nào xây dựng và phát huy tốt nguồn lực con người thì hoàn toàn có thể thực hiện thành công chiến lược công nghiệp hoá, hiện đại hoá rút ngắn. Những năm qua, chúng ta đã thực hiện nhiều giải pháp nhằm phát triển nguồn nhân lực và đã đạt nhiều thành tựu quan trọng. Tuy nhiên, phát triển nguồn nhân lực vẫn còn nhiều bất cập, tỷ lệ lao động chưa qua đào tạo còn lớn, chất lượng đào tạo thấp, cơ cấu ngành nghề không hợp lý. Chúng ta đang thiếu cả cán bộ quản lý nhà nước, quản trị doanh nghiệp; thiếu đội ngũ chuyên gia trong các ngành kinh tế kỹ thuật và công nhân có tay nghề cao. Đây là những trở ngại lớn cho tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.
Chiến lược nhấn mạnh, phải đặc biệt coi trọng phát triển đội ngũ cán bộ lãnh đạo quản lý giỏi, đội ngũ chuyên gia, quản trị doanh nghiệp giỏi, lao động lành nghề và cán bộ khoa học, công nghệ đầu đàn. Đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu đa dạng, đa tầng của công nghệ và trình độ phát triển của các lĩnh vực, ngành nghề. Thực hiện liên kết chặt chẽ giữa các doanh nghiệp, cơ sở sử dụng lao động, cơ sở đào tạo và Nhà nước để phát triển nguồn nhân lực theo nhu cầu xã hội. Thực hiện các chương trình, đề án đào tạo nhân lực chất lượng cao đối với các ngành, lĩnh vực chủ yếu, mũi nhọn. Chú trọng phát hiện, bồi dưỡng, phát huy nhân tài; đào tạo nhân lực cho phát triển kinh tế tri thức.
Phát triển nguồn nhân lực vừa là yêu cầu cấp bách vừa là nhiệm vụ lâu dài theo tiến trình phát triển của tri thức nhân loại. Trong 5 năm tới, phải tập trung chỉ đạo xây dựng và  triển khai chương trình đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục theo hướng chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã hội hoá, dân chủ hóa và hội nhập quốc tế, trong đó, đổi mới cơ chế quản lý giáo dục, phát triển đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý là khâu then chốt. Đặc biệt coi trọng đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, phục vụ tái cấu trúc nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng. Lấy nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo làm trục xoay chính, kết hợp với mở rộng quy mô hợp lý. Quan tâm giáo dục đạo đức, lối sống, năng lực sáng tạo, kỹ năng thực hành, khả năng lập nghiệp. Đổi mới cơ chế tài chính; thực hiện kiểm định chất lượng giáo dục, đào tạo ở tất cả các bậc học. Xây dựng môi trường giáo dục lành mạnh, kết hợp chặt chẽ giữa nhà trường với gia đình và xã hội.
Điểm nhấn mới trong khâu đột phá này là đặt việc phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao trong sự gắn kết với việc phát triển và ứng dụng khoa học công nghệ. Điều này thể hiện tính hướng đích của sự phát triển khoa học, công nghệ, bảo đảm chuyển tiềm năng trí tuệ của nguồn nhân lực thành những thành quả ứng dụng và sáng tạo khoa học công nghệ - động lực then chốt của quá trình phát triển nhanh và bền vững.
Trong nhiệm kỳ 2011 - 2016, Chính phủ sẽ đổi mới mạnh mẽ, đồng bộ tổ chức, cơ chế quản lý, cơ chế hoạt động khoa học công nghệ; hướng trọng tâm hoạt động khoa học công nghệ vào phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, chuyển đổi mô hình tăng trưởng, góp phần tăng nhanh năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Ban hành các chính sách khuyến khích các doanh nghiệp đổi mới công nghệ, ưu tiên sử dụng các công nghệ tiết kiệm nguyên liệu, năng lượng, thân thiện với môi trường, phát triển kinh tế xanh.
3. Xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ với một số công trình hiện đại, tập trung vào hệ thống giao thông và hạ tầng đô thị lớn
Kết cấu hạ tầng là đường dẫn của sự phát triển kinh tế xã hội, là điều kiện để phân bổ lực lượng sản xuất, thúc đẩy lưu thông hàng hóa. Một hệ thống kết cấu hạ tầng phát triển đồng bộ sẽ mở rộng không gian phát triển, kết nối các vùng kinh tế, làm tăng tính hiệu quả nhờ quy mô. Trong những  năm qua, chúng ta đã huy động nhiều nguồn lực để xây dựng kết cấu hạ tầng, góp phần quan trọng vào phát triển kinh tế xã hội, xóa đói giảm nghèo trên các vùng miền của đất nước. Tuy nhiên, hệ thống cơ sở hạ tầng vẫn còn  yếu kém, lạc hậu, việc quy hoạch xây dựng lại không đồng bộ, đầu tư dàn trải, khả năng kết nối các loại hình vận tải, kết nối giữa các vùng trong nước và với các tuyến vận tải quốc tế còn hạn chế. Quy mô kinh tế ngày càng tăng, quá trình đô thị hoá ngày càng mạnh mẽ càng bộc lộ những bất cập trong kết cấu hạ tầng nước ta, nhất là hệ thống giao thông và hạ tầng đô thị, làm tăng chi phí, giảm sức cạnh tranh và là một trong những điểm nghẽn tăng trưởng. Chính vì vậy, Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020 xác định: Xây dựng kết cấu hạ tầng tương đối đồng bộ, với một số công trình hiện đại, tập trung vào hệ thống giao thông và hạ tầng đô thị lớn là một khâu đột phá.
Để thực hiện tốt đột phá này, phải thay đổi cách tiếp cận từ khâu quy hoạch, lựa chọn các ưu tiên đến phương thức huy động nguồn lực và thủ tục triển khai dự án.
Cần xây dựng quy hoạch theo sự phân bố lực lượng sản xuất và bố trí dân cư gắn với quá trình đô thị hoá trên tầm nhìn cả nước. Nhu cầu phát triển kết cấu hạ tầng ở các địa phương là rất lớn. Trong điều kiện nguồn lực có hạn, quyết định của chúng ta không thể dựa vào lòng mong muốn mà phải lựa chọn cái tốt nhất có thể nhằm giải tỏa nhanh các điểm nghẽn vận tải, đạt hiệu quả kinh tế xã hội cao nhất, trong thời gian ngắn nhất. Trên tinh thần đó, việc phát triển kết cấu hạ tầng giai đoạn 2011 - 2015 sẽ thực hiện theo định hướng sau:
Thứ nhất, tập trung đầu tư tuyến đường bộ Bắc - Nam. Ưu tiên phát triển hệ thống giao thông ở những vùng có dung lượng hàng hóa lớn, các địa bàn thuộc các cực tăng trưởng, kết nối với các vùng miền, với khu vực và quốc tế, tạo hiệu ứng lan tỏa mạnh, thúc đẩy tăng trưởng của cả nước. Hiện đại hóa và nâng cao năng lực các dịch vụ tổng hợp của 3 cảng biển lớn ở 3 khu vực: Hải Phòng, Thành phố Hồ Chí Minh - Vũng Tàu và Miền Trung; hình thành các trung tâm kinh tế biển lớn. Gắn việc phát triển kết cấu hạ tầng trong nông nghiệp nông thôn với chương trình xây dựng nông thôn mới; quan tâm giải quyết những yêu cầu bức xúc về sản xuất, lưu thông hàng hóa, đi lại, phòng chống lũ quét trên địa bàn miền núi và vùng đồng bào dân tộc.
Thứ hai, tập trung nâng cấp, phát triển đồng bộ và hiện đại hoá hệ thống hạ tầng các đô thị lớn gắn với bố trí, cơ cấu lại sản xuất và phân bố dân cư. Phát triển nhanh hệ thống giao thông đô thị, nhất là giao thông công cộng. Tập trung giải quyết nạn ùn tắc và úng ngập ở Thủ đô Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh.
Thứ ba, phát triển nhanh hệ thống nguồn và truyền tải điện đi đôi với sử dụng công nghệ tiết kiệm năng lượng, bảo đảm đủ năng lượng cho nhu cầu phát triển của đất nước và đời sống nhân dân.
Thứ tư, phát triển đồng bộ và từng bước hiện đại hóa hệ thống thuỷ lợi, chú trọng xây dựng và củng cố hệ thống đê biển, đê sông, các trạm bơm, các công trình ngăn mặn và xả lũ. Xây dựng các công trình phòng tránh thiên tai, các khu neo đậu tàu thuyền để giảm nhẹ thiệt hại cho nhân dân. Hiện đại hoá ngành thông tin - truyền thông và hạ tầng công nghệ thông tin, đáp ứng yêu cầu phát triển và góp phần nâng cao năng suất lao động.
Chính phủ sẽ tập trung hơn nữa hoàn thiện cơ chế, chính sách đầu tư trong đó tập trung hoàn thiện cơ chế huy động nguồn lực, các quy định về thủ tục đầu tư và mua sắm công. Phải huy động ngày càng nhiều đầu tư của xã hội cho phát triển kết cấu hạ tầng, đẩy mạnh xã hội hóa việc đầu tư, thực hiện đa dạng hoá hình thức đầu tư, khuyến khích và tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế, kể cả đầu tư nước ngoài tham gia phát triển kết cấu hạ tầng, tạo điều kiện thúc đẩy mạnh mẽ việc thực hiện các phương thức đầu tư hiệu quả như xây dựng - kinh doanh - chuyển giao (BOT), xây dựng - chuyển giao (BT), nhất là phương thức hợp tác công - tư (PPP), đồng thời tiếp tục nghiên cứu, tiếp thu kinh nghiệm quốc tế xây dựng các cơ chế, chính sách mới phù hợp, đồng bộ để phát triển hạ tầng.
Đổi mới quy trình và thủ tục đầu tư nhằm vừa đẩy nhanh tiến độ triển khai dự án vừa tăng cường chất lượng thiết kế thi công, tăng cường công tác giám sát, bảo đảm chất lượng công trình và hiệu quả đầu tư đi đôi với việc nâng cao năng lực của các đơn vị trong nước.
*
*  *
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nâng cao hiệu lực hiệu quả quản lý nhà nước, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, thực hiện nguyên tắc “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” theo đúng vai trò nhân dân là chủ nhân của quá trình phát triển, nhất định chúng ta sẽ thực hiện tốt ba đột phá chiến lược, tạo tiền đề có tính quyết định thực hiện thắng lợi Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020./.