Thứ Sáu, 30 tháng 12, 2011

VÀNG, VÀNG... HÃY CHỜ ĐỢI ĐIỀU GÌ XẢY RA?

Trong nhiều lần nhận định, tôi đã đề cập đến vấn đề giá Vàng trong nước khác thường với Thế giới. Mà điều khac thường này bắt nguồn từ khi NHNN cho phép bán Vàng bình ổn. Và như những dự báo, nếu giá Vàng Thế giới xuống thấp, điều gì sẽ chờ đón.
Vừa nhận được thông tin từ bài viết này : http://hcm.24h.com.vn/tai-chinh-bat-dong-san/ngan-hang-che-vang-c161a426786.html
Thời điểm này Vàng thế giới đang giảm rất mạnh và có thể còn giảm sâu về ngưỡng 1.4..$/ouz. Chỉ khi nào chúng ta nhận thấy đồng USD giảm manh hoặc tín hiệu bơm tiền tiếp theo của FED. Tuy nhiên khi nền kinh tế đang có dấu hiệu hồi phục trở lại, việc hy vong vào FED bơm tiền ồ ạt như lần trước là không bao giờ diễn ra. Mà nếu có chỉ là động thái nhỏ rọt, do vậy, kỳ vọng vaò giá vàng thế giới tăng mạnh là điều rất khó nếu bối cảnh này vẫn tiếp diễn mà không có bất cứ bất thường nào xảy ra.
Vơi TT Vàng VN, giờ đang rất nhiều vấn đề mà chúng ta cần quan sát tiếp thời gian tới. Khi động thái các Bank đang k nhận thế chấp bằng các khoản vay Vàng, đồng nghĩa nếu rủi ro Vàng sẽ có đợt bán tháo..

Thứ Ba, 20 tháng 12, 2011

QUÝ 1/2012 - ĐIỀU GÌ SẼ XẢY RA

Năm 2011 săp qua đi, phải công nhận răng năm 2011 là một năm cực kỳ tồi tệ. Những ai am hiểu Tài chính kinh tế đều có cảm nhận nỗi lo sợ về điều gì đó đổ vỡ đang sắp xảy ra. Hãy điểm qua tình hình vài điểm nóng và tính hình trong nước để có cái nhìn rõ hơn.
Nước Mỹ :
-       GDP quý 3 tăng trưởng mức 2% thấp hơn so với dự đoán là 2,5%. Tuy nhiên so với Q2/2011 là 1,3% đã cho thấy mức tăng trên là khá tốt và dự báo Q4/2011 sẽ có mức tăng tốt hơn nữa.
-       Dự trữ hàng tồn kho giảm nhanh từ mức 8,5 tỷ xuống còn 5,4 tỷ $. Trong khi đó nhu cầu tiêu dùng tăng mạnh với mức tăng 2,3% (thấp hơn dự báo 2,4%) nhưng cao nhất từ năm 2010 đến nay.
-       Với tình hình khả quan từ Quý 3, nhiều người kỳ vọng vào Quý 4/2011 sẽ mang lại nhưng con số tốt hơn.
Tuy nhiên, với thế giới đầy bất ổn, chung ta cần chờ đợi vào con số thực tế mà Mỹ sẽ công bố trogn Q4/2011. Nhiều khả năng sang Q1/2012 nước Mỹ sẽ chịu tác động mạnh từ việc đồng Dollar lên giá.
Châu Âu :
-       Nước Pháp có vấn đề về Kinh tế (theo đanh giá của S&P). Trogn khi đó Pháp và Đức lại là hai chủ thể chính trong công cuộc taisi thiết lại vấn đề nợ công của Châu ÂU
-       Trong khi đó Đức lại không ủng hộ việc phát hành Trái phiếu chung Châu Âu vì rõ ràng điều đó đánh đồng mọi thứ, nước Đức an toàn bỗng dưng lại gánh nợ nần cho các Quốc Gia khác
-       Trong phiên họp vừa qua, trong khi 26/27 thành viên Châu Âu thống nhất về cuộc giải cứu mà Pháp – Đức đề xuất thì nước Anh lại đứng ngoài cuộc chơi. Theo đanh giá các chuyên gia thì trong kế hoạch này tác động rất lớn đến Thị trường Tài chính hùng mạnh của Anh tại Luân Đôn. Vì thế nhiều lo lắng lại đến khi thế giới cho rằng Châu Âu đang chia rẽ
Thị trường tiền tệ :
-       Với lo ngại về Châu Âu, nhà đầu tư liên tục mua vào đồng Dollar Mỹ. Điều này khiến cho đồng USD lên giá với hầu hết các đồng tiền khác. Đánhh giá vấn đề này có mấy điểm sau :
ü  Tỷ giá EUR/USD từ 1,5 xuống hiện nay là 1,3 và dự báo đáy của nó có thể là 1. Có nghĩa 1 EUR = 1 USD. Châu Âu sẽ có kế hoạch tiếp tục với lãi suất thấp và có thê rmanh tay hơn là giảm giá đồng tiền EUR nhằm giam bớt áp lực với hàng loạt trái phiếu đáo hạn sắp tới. Trái phiếu Châu Âu được phát hành bằng đồng USD. Vì thế nếu như EUR hạ giá từ 1,5 về 1 thì đồng nghĩa khoản nợ sẽ giảm tương ứng 50%.
-       Tuy nhiên khi thế giới đang bấp bênh, mọi con mắt hiện giờ đang trông cậy vào nước Mỹ và Nhật. Nước Nhât và Mỹ đang cho thấy sự hồi sinh và người ta kỳ vọng vào 2 quốc gia này sẽ gánh đỡ cho thế giới và năm 2012. Tuy nhiên đồng USD lên giá lại k có lợi cho Mỹ (lợi cho Nhật Bản). Vì thế khi có con số thông kê về kinh tế Q4/2011, FED sẽ quyết định với đồng USD. Liệu QE3 có thể sẽ xảy ra??
-       Tháng 10/2011, do đồng JPY lên giá qua mạnh so với các ngoại tệ khác, tỷ giá USD/JPY từ mức 85 hồi tháng 3 giam mạnh về mức 75 khiến cho các DN Nhật Bản kinh doanh ngaofi lãnh thổ liên tục báo lỗ. Vì thế Nhật Bản đã khẩn cấp bơm ra thị trường 10.000 tỷ JPY nhằm chặn đà tăng giá. Với việc USD lên giá khiến tỷ giá đang có lợi cho nước Nhật mà không cần can thiệp.
-       Có 2 đồng tiền sẽ giảm mạnh trong năm 2012 là : CHF (thụy Sỹ) và SGD (Singapore). Tỷ giá USD/SGD từ mức 1,2 tháng 7-8/2011 và hiện tại là 1,307. Còn tỷ giá USD/CHF từ mức 0.71 Tháng 7-8/2011 và hiện tại là 0.9371.
-       Vì thế, khi con số về kinh tế Mỹ Quý 4 đươọc công bố, nếu như không khả quan, việc FED sử dụng tiếp QE3 trở nên rõ ràng hơn thì tỷ giá các đồng tiền trên sẽ bị tác động theo chiều ngược lại.
Vàng :
-        Tháng 6 khi Châu Âu bắt đầu có biểu hiện của sự đổ vỡ mà Hy Lạp là nguồn cơn. Mọi lo lắng đổ dồn và người ta lo sợ sự đổ vỡ và bắt đầu tìn đến Tài sản an toàn. Thực tế thời gian này không chỉ Vàng mà hàng loạt các tài sản khác đều lên giá rất mạnh. Bạc – platium – Đồng – Nhôm … tất cả đều lên giá rất mạnh. Vàng được nhiềun nhà đầu tư thu mua mạnh khiến giá Vàng lên thẳng đứng tạo đỉnh tại mức 1934 USD/ouz.
-       Tuy nhiên, khi Châu Âu thực sự lâm bệnh nặng và bản thân nhiều nguyên thủ và nhà lãnh đạo hàng đầut hừa nhận về tình hình bi đát của Châu Âu thì giá Vàng lại giảm không phanh. Có lúc điểm thấp nhất từ đỉnh là 15.,,,, Vậy nguyên nhân là gì?  ở đây rõ ràng là hai yếu tố : khi Mỹ in quá nhiều USD và cho vay với lãi suất cực thấp khiến đồng USD chạy đến mọi ngóc ngách xã hội. Đồng tiền nằm quá nhiều tại các Quỹ mà không thể sinh lời. Điều này khiến nhiều Quỹ lợi dụng tình thế đã đấy giá hàng loạt các mặt hàng, bất kể loại hàng hóa nào. Khi yếu tố đầu cơ không còn thì Vàng không còn ý nghĩa nữa.

TRONG NƯỚC :
-       Ngân hàng :  năm 2011 là năm cực kỳ tồi tệ với lĩnh vực này. Rối loạn, biểu hiện cho một chu kỳ tăng nóng. Hàng loạt Ngân hàng có vấn đề. Nợ xấu tràn lan, có Bank nợ xấu lên hơn 10% thì coi như đổ vỡ rồi. Vì thế NHNN nhiều lần phải đăng đàn đảm bảo về tinhsthanh khoản cho tất cả các khoản gửi.
Vay interbank phải có thế chấp. Đây là hệ lụy của hàng loạt các Bank vay trên Thị trường 2 bùng nợ.
Ba bank phải hợp nhất gồm : FICOBANK – Tín nghĩa Bank – SCB Bank tạo thành Bank mới tên SCB mà BIDV đưng sau chống lưng với mức vốn điều lệ 10.500 tỷ đồng
Nhận định : Xu hướng điều hành mới sẽ xuất hiện, Không đi vào việc quản lý theo số lượng. Khả năng yêu cầu tăng vốn điều lệ sẽ bị thay thế. Phạm vi hoạt động của từng Bank sẽ căn cứ trên thực tế và các chỉ tiêu tín dụng cũng vậy. Có nghĩa bé hoạt động theo bé, lớn hoạt động theo lớn. Nghị quyết là đến 2015 sẽ thành nhóm G + 15 thay cho G+12 như hiện nay. Và vốn điều lệ Bank lớn nhất có thể lên đến 1 tỷ USD.
Như vậy, cơ cấu ổn định nhóm này đã rõ ràng và cái cần là liệu điều haành có như vậy?
-       Lạm Phát : CPI đang giam tốc sau 1 thời gian dài kiềm chế lạm phát. Lo lắng nhất là tháng cận Tết, khi mà chỉ số thường tăng giá mạnh vào dịp này. Bài toán phải giải quyết hiện nay :
Lãi cao à DN chết à Cung trong nước ít đi à Nhâp khảu tăng mạnh à Tỷ giá có vấn đề và NK cả lam phát về à CPI lại tăng mạnh trở lại
Để giảm Lãi suất thì phải làm sao CPI giảm. Quan niệm CPI còn cao thì LS chưa thể giảm do không thể là LS thực dương. Vì thế trong tháng Tết này Chính phủ chỉ đạo sẽ dùng một nguồn lực nhằm bình ổn giá cả. Vì thế mọi hành vi trong thời điểm này rất nhạy cảm và có thể trở thành vi phạm pháp luật.
-       Tỷ giá : Như đã nói ở trên, đồng USD đang lên giá mạnh so với các đồng tiền khác, vì thế những tháng cuối năm này việc ổn định tỷ giá là điều rất quan trọng. Tuy nhiên do giá Vàng trong nước và thế giới đang chênh lệch quá lớn khiên cho tình trang nhập lậu Vàng sẽ diễn ra. Đồng USD sẽ được thu gom mạnh hơn để nhập khẩu Vàng về. Đây sẽ là yếu tố tác động mạnh hơn đến Tỷ giá.
Yếu tố giúp cho việc điều hành ty giá hiện nay là : Kiều hối năm 2011 khá cao trong bối cảnh kinh tế thế giới hiện nay. Và nhu cầu tiêu dùng trong nước đang chậm lại do khó khăn về kinh tế kéo dài. Điều này làm cho NK giảm mạnh hai tháng trở lại đây.
Đầu năm 2011 khi mà LS đồng VN tăng quá cao, trong khi LS USD lại thấp khiến nhiều DN đi vay USD rồ I bán lại cho Bank và lấy tiền VND gửi. Điềunaàyaoạora  hệ lụy khi đáo hạn là Cầu USD sẽ tăng mạnh vào 1 thời điểm. Đây cũng chính là sức ép lên tỷ giá cuôi năm.
Cán cân thanh toán của Việt Nam tiếp tục thâm hụt, kể cả trong năm 2012 tới. Dù năm 2011 này Nhập siêu đã giảm bớt nhưng vẫn còn quá cao.
-       Vàng : Vàng VN chênh lệch quá lớn với giá vàng thế giới. Hệ lụy của nó chính là chính sách mà NHNN thực thi thời gian vừa qua vơi hàng loạt các Thông tư 32-33 và 34/NHNN. Theo đó NHNN cho phéo 05 Bank được huy động Vàng và bán lại co dân cư có nhu cầu. Điềun ày tạo thành Vòng quay với giới đầu cơ như sau :
Họ có Vàng gửi vào Ngân hàng A, rồi dùng chứng chỉ này sang Ngân hàng B vay tiền và quay lại mua tiếp Vàng và lại gửi và lại thế chấp mua. Vì thế mà con số vàng bán ra bình ổn hồi tháng 9-10 lên đến hơn 10 tấn Vàng = tương đơng 13.000 tỷ đồng. Trong khi tiền VND thời đeểm này khá khan hiếm thì con số trên quả là “ấn tượng”
Hơn nữa NHNN cho phép Vàng SJC thành Vàng quốc gia khiến cho hàng loạt các thương hiệu Vàng khác khốn đốn.
Chính sách về Vàng và việc Vàng đang neo giá chệnh lệch lớn với thế giới khiến nhiều người đang đặt ra câu hỏi? Câu trả lời sẽ đến nếu như giá Vàng liên tục chênh lệch như thế và nếu giá Vàng xuống sâu hơn nữa thì hệ lụy thật khó lường.

ĐIỀU GÌ SẼ XẢY RA TRONG QUÝ 1/2012 :
-       Điều chỉnh lãi suất :  Lãi suất phải giảm nếu không muốn kinh tế tiếp tục đình đốn và lạm phát lại quay trở lại do Nhâp khẩu Lạm phát và thiếu Cung. CPI giảm là LS sẽ giảm. Đó là quan điểm mà kể cả người dân lẫn các nhà hoạch định đều tin tưởng. Vì thế áp lực Tháng Tết với CPI đã được Chính phủ khống chế bằng việc hỗ trợ và trợ giá cho hang loạt các mặt hàng. Hơn nữa, trong bối cảnh kinh tế khó khăn, cầu tiêu thụ Tháng Tết sẽ không mạnh như các năm trước. Vì vậy chắc chắn lãi suất sẽ giảm.
Dự báo cận Tết hoặc sau Tết. Mức giảm đầu tiên sẽ là đánh vào LSHĐ từ trần 14% về 12%. Có thể lãi suất trần 1 năm cho phép là 14%. Bởi hiện nay, LS dài hạn lại thấp hơn ngắn hạn, đó là sự bất ổn. Mức huy động càng dài thì Bank đỡ đi nhiều khoản dự phòng theo quy định và làm ổn định hơn tình hình tại các Bank.
-       Đau đầu tỷ giá :  Vàng chênh lệch khiến Dollar Mỹ tự do bị thu gom mạnh. Hơn nữa việc Nhâp khẩu hàng Tết và việc đáo hạn các khoản Vay Dollar cũng tạo áp lực lên tỷ giá. Nếu như Vàng tiếp tục chênh lệch sẽ có nhiều cuộc kiêm tra và việc mua bán ngoại tệ sẽ giống vụ Phan Xích Long. Dự báo từ nay đến Tết có thể NHNN sẽ điều chỉnh thêm 1 chút về tỷ giá.
-       Vàng đang có vấn đề? Tại sao gia thế giới tương đương 40,2 triệu thì Việt Nam lại luôn là mức 43-44 triệu. Như giải thich bên trên, có lý do riêng từ chinh sách và ngầm là giới đầu cơ mà chưa ai đưa ra cụ thể. Vì thế Vàng không nên là kênh đầu tư trong thời điểm này. Hơn nữa khi Vàng thế giới vẫn tiếp tục giảm do đồng USD lên giá thì khả năng Vàng giảm về vùng 1.483 USD?ouz là khá cao. Chỉ khi nào FED tuyên bố rằng QE3 sẽ được thực thi thì Vàng có cơ hội tăng giá trở lại. Khi đó giá tại VN và thế giới chưa biết ra sao. Nếu giá Vàng thế giới giảm sâu thì có thể cuộc khủng hoảng Vàng lại xuất hiện.
-       BĐS : Ngay càng kiệt quệ là câu chuẩn xác nhất với giới Kinh doanh địa ốc. Vay 1 tỷ đồng sau năm trả lãi 240-250 triệu thì chẳng mấy chốc biếu không. Hơn nữa sóng Đất Đông Anh xuất hiện từ Tháng 2 đến T4/2011. Vì thế thời điểm này tín dụng vay khá lớn và chắc chắn se phải đáo hạn. Các Bank sẽ không thể nới thêm thời gian. Vì thế nếu không muốn vừa bị phát mại tài sản mà vẫn còn mắc nợ thì hiện tại tốt nhất là tìm cách bán.
Dự báo : Thời điểm T2-T4/2012 BĐS sẽ chịu thêm áp lực giảm giá mà khu vực phía Bắc sẽ là chủ yếu.. Khu vực Miền Nam do trầm lắng khá lâu nên áp lực này sẽ không lớn. Theo dự báo thì giá Chung cư có thể giảm sút thêm 10-15% nữa.
-       TTCK :  Năm 2011 nói đúng là năm thất bại toàn diện với lĩnh vực này. Hiện nay đã gần hết năm 2011, lỗ cũng đã lỗ rồi. Tuy nhiên thời điểm cuối năm, dong tiền mặt vẫn rất khan hiếm khiến cho nhiều Quỹ - Tổ chức năm giữ CP thiếu tiền mặt. Do vậy, sẽ có những tổ chức bán Cổ phiếu ra dù rằng giá hiện nay là rât thâp. Vì thế giá CP sẽ còn tiếp tục xu hướng giảm nhẹ đến cận Tết. Kết hợp với những khó khăn của BĐS thời điểm tháng 2 đến T4/2012, giá CP sẽ khó có cơ hội tăng mạnh. Hơn nữa thời điểm này, hàng loạt các DN sẽ tổ chức Đại hội cổ đông về KH năm 2012, trong đó các Quỹ sẽ công bố KH tồn tại hay giải tán. Theo đánh giá thì sẽ được nới thêm thời hạn, hoặc mô hình Quỹ mở sẽ hấp thụ hết các Quỹ phải giải tán (do đủ thời hạn 5 năm). Điềun ày thực tế không đáng lo ngại.
-       Tuy nhiên, đây lại chính là thời điểm mà lựa chọn đầu tư như một phần tài sản trong danh mục này. Bởi khi hết Quý 2/2012 nếu không có diễn biến quá xấu xảy ra thì Việt Nam có thể coi như bớt đi nhiều gánh nặng. Yếu tố Vĩ mô sẽ sáng sủa hơn. Theo dự báo kịch bản xảy ra như sau : Thang 1 hoặc thán g2 sẽ giảm lãi suất tạo tiền đề giảm LSCV.Năm 2012  được dự báo là năm khó khăn vì thế nhu cầu sản xuất thế giới giảm à giá cả Nguyen vật liệu sẽ rẻ đi. Đây chính là thời điểm các DN trong nước sẽ có cơ hội phục hồi lại sản xuất.


Chủ Nhật, 4 tháng 12, 2011

NẾU LÃI SUẤT HUY ĐỘNG GIẢM ??

Trên thị trường đang có những đồn đoàn rằng, LSHĐ sẽ giảm nhằm tạo áp lực thêm cho việc giảm LSCV. Vậy hãy xem xét các nhân tố có thể giúp thực hiện điều này :
1 - Lạm phát : 3 tháng trở lại đây, CPI có tăng nhưng mức độ tăng là không nhiều. Lo ngại nhất là cận Tết, khi đó CPI có thể tăng mạnh trở lại. Xét theo yếu tố này, tôi có quan điểm rằng, CPI không thể tăng mạnh và đột biến. Trước hết, sống quá lâu với lạm phát cao, giá cả tăng cao lại cộng với việc thắt chặt tiền tệ khiến cho việc kiếm tiền trở nên cực kỳ khó khăn. Vì thế khi mua các sản phẩm họ phải tính toán rất kỹ. Hơn nữa trước áp lực Tương lai (do chưa nhận thấy yếu tố đột biến có thể mang lại nguồn tiền), cộng với lo ngại về chi phí sắp phải tăng lên do thay đổi chi phí đầu vào như Điện - Xăng, khi đó mức chi tiêu tiếp tục ở mức thấp. Vì thế lo ngại CPI tăng tháng cận Tết không nhiều cơ sở
2 - Doanh nghiệp mòn mỏi : Lãi suất cao khiến DN lao đao. 9 tháng có hơn 50.000 DN bị khai tử, BCTC của hàng loạt DN cho thấy các khoann "phải thu ngắn hạn"  tăng lên mạnh, nguồn tiền lưu động thấp hơn cả khoản vay ngắn hạn. Nếu cứ tiếp tục thì việc DN chết dần chết mòn trong năm 2012 là khả năng cao.
3 - Lãi suất kỳ vọng thực dương : dù CP có nói sẽ cố gắng giữ CPI<10% thì việc LSHD =14% cho thấy thực dương rồi?? Giảm về 12% vẫn có lãi 2% minimum. Tuy nhiên áp lực để có được CPI < 10% chính nhờ cả vaofo yếu tố giảm LSCV.
4 - Nguy cơ Nhập khẩu lạm phát :

HẬU QUẢ CỦA THẮT CHẶT TIỀN TỆ

Khi phải thực hiện biện pháp này có thể điểm qua các vấn đề với nền kinh tế :
- Lạm phát quá cao và tiếp tục xu hướng cho thấy tăng
- Sử dụng đồng tiền quá lãng phí.
- Bong bóng tài sản bắt đầu hình thành
- Tiền tăng nhưng kèm theo đó là các chỉ số cho thấy tài sản không tăng --> đầu cơ quá cao


1. Khởi phát và đẩy mạnh cuộc đua tăng lãi suất:
Quyết định rút tiền ra khỏi lưu thông bằng tín phiếu sẽ tiếp thêm năng lượng cho những cuộc đua tăng lãi suất của ngân hàng. Nhìn ở một khía cạnh nào đó, cuộc đua này sẽ khiến nhiều người bắt đầu quan tâm trở lại với việc đem tiền đi gửi ngân hàng vì lãi suất tiền gửi tăng cao.
Tuy nhiên, nếu lãi suất huy động của ngân hàng tăng thì lãi suất đầu ra khó mà đứng yên. Như vậy, chi phí vay mượn chosản xuất kinh doanh sẽ tăng lên. Ở đây có hai tình huống có thể xảy ra. Một là doanh nghiệp chuyển hết phần chi phí tăng thêm này vào giá bán và như vậy, giá cả không những không giảm mà tăng thêm, khiến mục tiêu giảm lạm phát bằng thắt chặt tiền tệ không thể thực hiện. Việc doanh nghiệp có thể chuyển chi phí vay mượn vào giá cả hay không phụ thuộc vào kỳ vọng lạm phát của người dân và khả năng có các nguồn hàng thay thế trên thị trường[2].
Không thể xem thường, không giám sát kỹ các khâu trong quá trình lưu thông hàng hóa, tránh tình trạng hàng rẻ mà doanh nghiệp vẫn thích bán giá mắc vì người dân vẫn đang trong tình trạng lo sợ tăng giá. Còn trong tình huống thứ hai, đó là chi phí sản xuất kinh doanh tăng lên, mà doanh nghiệp không thể chuyển phần chi phí này vào giá bán thì họ sẽ chịu nhiều khó khăn, có thể dẫn đến thua lỗ, và giảm quy mô kinh doanh[3][4].
2. DN rơi vào tình trạng giải thế và phá sản khá nhiều
Khi DN đang có thói quen kinh doanh trong môi trường thuận lợi bởi sự chi tiêu có phần phóng khoáng do KT đang thoải mái. Khi thắt chặt tiền tệ gây ra cuộc chạy đua lãi suất cao làm chi phí tăng mạnh. Có DN mà chi phí lãi vay chiếm gần hết lợi nhuận. Một điều hết sức khủng là, DN vay quá nhiều để mở rộng sản xuất, khi gặp tình hình này khiến cho việc SXKD gặp trở ngại, và khoản vay mở rộng sản xuất là một khoản nợ khổng lồ mà THOÁI không xong, TIẾP không nổi do chi phí vốn.
Chính điều đó gây ra hiện tượng nhiều DN phá sản. Năm 2011, chỉ riêng 9 tháng đã có đến 48.000 DN phá sản.
3. Tạo áp lực lên tăng trưởng và việc làm:
Quyết định thắt chặt tiền tệ sẽ tạo áp lực tăng lãi suất ngân hàng, tăng chi phí vay mượn cho sản xuất kinh doanh trong tình hình nền kinh tế cần nhiều vốn để phát triển (hệ số ICOR của nền kinh tế còn quá cao nên để duy trì tăng trưởng thì phải đổ nhiều vốn vào), có thể là sự sụt giảm đáng kể trong tỷ lệ tăng trưởng kinh tế. Chỉ số tăng trưởng quốc gia sau khi thắt chặt tiền tệ sẽ bị ảnh hưởng mạnh. Mà tăng trưởng không cao thì sẽ tạo sức ép lên việc làm và thu nhập của người dân[5].
4. Nguồn vốn đầu tư bị giảm mạnh :
Nguồn vốn này xuất phát từ các Tổ chức – Ngân hang và dân cư. Khi thắt chặt tiền tệ, họ thường có xu hướng thu hồi tiền về. Việc bán bớt danh mục đầu tư xuất hiện giai đoạn đầu ( giai đoạn này thường là các nhóm người am hiểu tài chính). Sau đó sẽ là việc bị bán tháp Tài sản Thuộc nhóm thanh khoản ( Chứng khoán) và cuối cùng là căng thẳng sẽ đến với nhóm TS không thanh khoản bị đóng băng ( Bất động sản) và giá sẽ về đến ngướng thấp nhất để hút trở lại lực Câu fthực sự. (Giai đoạn Nhà đầu cơ mất tài sản lớn nhất)
5. Trở ngại cho thu hút vốn gián tiếp:
Các quy định thắt chặt tiền tệ sẽ tạo ra cảm giác cho nhà đầu tư là nhà nước đang cho "hy sinh" các thị trường vốn và thị trường chứng khoán để chống lạm phát. Điều này có khả năng sẽ làm xói mòn hơn nữa niềm tin của nhà đầu tư.
6. Đồng tiền lên giá:
Áp lực tăng giá đồng tiền sẽ gây ảnh hưởng không nhỏ cho xuất khẩu. Hậu quả chung là làm cho xuất khẩu bị giảm sút mạnh và hàng xuất khẩu bị giảm sức cạnh tranh.
7. Gây áp lực lên Lãi suất ngoại tệ và tỷ giá ngoại tệ cuối năm
Khi Lãi suất tiền VND tăng cao, trong khi lãi suất ngoai tệ thấp. Tận dụng điều này, nhiều DN vay USD quy đổi sang VND và gửi lại tổ chức tín dụng.
Hệ lụy của điều này :
- Lúc đầu tạo ra :  Tăng dư nợ ngoại tệ --> khi bán ngoại tệ lấy TM và gửi lại NH --> tăng lượng tiền huy động
- KHi đáo hạn :  Rút tiền ra mua ngoại tệ --> Hụt lượng tiền gửi --> Tranh mua ngoai tệ gây tăng tỷ giá --> trả nợ ngoại tệ --> giảm dư nợ ngoại tệ --> Dầu cơ ngoại tệ --> ảnh hưởng nền kinh tế buộc NHNN phải can thiếp --> Bán ngoai tệ ra làm giảm dự trữ Ngoại tệ.
Nguy hiểm 2 lần được tạo ra thời điểm này : Gây căng thẳng tỷ giá và gây thiếu hụt tiền mặt làm ảnh hưởng thanh khoản của các Ngân hàng và lại tiếp tục gây sức ép lên Lãi suất.
Hoạt động của các Ngân hàng tạo ra rủi ro lớn cho cả nền kinh tế lẫn hệ thống Tài chính quốc gia. Vì thế, việc sắp xếp và tạo sự ổn định là điều tất yếu phải xảy ra, nếu không muốn đất nước bị vỡ nợ bào phủ.
8. Các vấn đề xã hội được bộc lộ - Tín dụng đen nở rộ :
Khi cuộc đua lãi suất từ các Ngân hàng xảy ra khiến nhiều người không tiếp cận được nguồn vốn do tiêu chí cho vay nâng lên. Vì thế Tín dụng đen mở rộng.
Khi lãi mẹ đẻ lãi con, thời gian làm cho nguồn tiền cạn kiệt vì lãi khi lãi suất lên đến 7-8%/tháng. Tất yếu gây đổ vỡ. Vỡ nợ xảy ra tuy nhiên mới chỉ thấy được sự vỡ nợ từ Tư nhân (tín đụng đen) chứ chưa thấy từ các Cty hay Ngân hàng. Mà thực tế thì Ngân hang cũng đã lâm vào cảnh này rồi nhưng nếu để NH đổ vỡ thì hệ thống tài chính tê liệt.
Các chủ nợ quay vòng TS quá nhanh, lãi mẹ đẻ lãi con và Tiền dung vào việc mua BĐS. Tâm lý người Việt là đất và Vàng chỉ có lên vì thế nên Tiền đổ vào nhiều.
9. Giải chấp tài sản xảy ra
Việc giải chấp thường bắt đầu từ các Tài sản có tính lỏng cao như : Cổ phiếu – Trái phiếu. Sau đó là hệ lụy của các Tài sản lớn được đảm bảo bằng Tiền Nợ như : Mua TSCĐ lớn và BĐS

Thứ Năm, 24 tháng 11, 2011

VÀNG SẼ LÀ KÊNH ĐẦU TƯ CỦA NĂM 2012

Giá Vàng đạt đỉnh 1917$/oz vào tháng 8 2011. và sau đo sự hoảng loạn của một cuộc đua về giá đã đẩy mọi người bán tháo khiến giá ngay lâp tức. Mức thấp nhất ghi nhận là 1535$/oz.
Dù vào T10 vừa qua giá Vàng có hồi phục lại lên đỉnh là 1.800$/pz. Tuy nhiên, giá Vàng lúc này không thể lên cao được khi mà hầu hết các hàng hóa khác đững im. Bạc không vượt ngưỡng 30$, trogn khi người dân lại muốn nắm giữ đồng USD. Vì thế mà giá Vàng đang ngày càng giảm mạnh.

Với thực tế hiện nay, Châu Âu vẫn đang loay hoay tìm cách gỡ khó cho nợ công. Tuy nhiên con đường này có vẻ đầy chông gai mà các biện pháp đều k đạt được sự đồng thuận. Trong khi đó, các khoản nợ này lại sắp đến hạn phải thanh toán. Điều đó đang ngày càng đẩy EURO zone vào vòng hiểm nguy. Vậy nên làm gì bây giờ?

Có thể dự đoán về sự đổ vỡ EU lên đến trên 50%, đồng tiền EUR vì thế sẽ mất giá thảm hại từ bây giờ. Giá một vài ngoài tệ khác sẽ lên mạnh mà đặc biệt là đồng Dollar Mỹ và GBP.

Kinh tế Mỹ vẫn đang ốm yếu, họ đang cần đến đồng Dollar rẻ để xuất khẩu. Việc đồng dollar Mỹ tăng giá mạnh là cơ hội để FED nghĩ về QE3. FED đã từng có ý định dùng tiếp QE3 nhưng chưa cụ thể thời điểm. Tôi nghĩ điều này sẽ xảy ra vào đầu năm 2012. Như thế  việc in thêm Tiền sẽ lại tiếp tục nhằm tiếp tục chính sách tiền rẻ đồng thời  với lãi suất cực thấp.

Khi Mỹ in nhiều tiền và cố giữ Dollar Mỹ với giá rẻ hơn, tiền Dollar Mỹ sẽ lại tiếp tục tìm nơi trú ẩn. Bởi người ta sẽ không giữ một tài sản troNG một giỏ. Và đích đến sẽ là Vàng. 

Vòng qua đã bắt đầu, và nếu Châu Âu không quyết liệt tìm giải pháp rõ rệt hơn để NĐT yên tâm với đồng UER thì chắc chắn năm 2012 sẽ lại là năm đầy yếu tố bất ngờ

Thứ Ba, 22 tháng 11, 2011

Tại sao TTCK Việt Nam ngày một giảm dù giá CP xuống mức thấp

Chứng kiến chỉ số CK cứ ngày một giảm, KLGD thì ngày một teo tóp dần. Sự nản chí thể hiện thật rõ trên TTCK. Không quá quan tâm đén số CP của mình đang còn bao nhiêu. Giờ nhiều NĐT chọn công việc khác cho mình nhằm quên đi thất bại và “hy vọng” và tương lai do cũng cho rằng giá CP đã thực sự quá thấp. Có vẻ như một suy nghĩ về thảm kịch với TTCK là đóng cửa có lẽ đã hiện hữu trong đầu của NĐT nào đó rồi cũng nên.

TTCK VN không theo bất cứ một quy luật nào cả, nặng về tính đầu cơ :  Có thời điểm, họ cứ mua là thắng, càng giữ lâu giá càng lên cao. Chiến lực đầu tư hay gọi là đánh cổ phiếu thì chính xác hơn thay đổi liên tục. Tuy nhiên với TTCK thời điểm này là một chiến lược hết sức kinh tế : Không cần biết Chỉ số của CP đó như thế nào, Tốt hay xấu mà chỉ cần CP nào có thể bán cao và mua lại rẻ hơn đồng thời có tính thanh khoản cao nhằm mua lại khi có biến. Chúng ta thấy nhà nhà bán, ai cũng cố bán lấy một ít, vài nghìn cổ phiếu cũng có thể có vài triệu. Tiền vài triệu giờ trở thành xa xỉ với dân đánh CK. Chính vì thế mà các mã CP có tình thanh khoản cao và được TT yêu thích thành món hàng bị bán liên tục như : SSI – VND – VCG – LCG … Thậm chí mã CP nào càng có tin xấu càng bị bán mạnh, nhứ KBC trước khi tin lỗ Quỹ 3 ra, mã này giảm sàn liên tục.
Yếu tố “truyền thông” : Hiên tượng đua nhau viết bài, các báo đăng loạn sới khiến người dân, NĐT hoảng loạn. Bởi thực tế hiện nay, người am hiểu tài chính và các vấn đề thế giới chỉ đếm trên đầu ngón tay. Báo mạng tràn ngập, công việc ít đi và thời gian dành cho việc đọc mạng ngày nhiều lên. Việc ngày nào cũng đập vào mắt những cái TÍT khủng khiến nhiều người dù can đảm cũng thành kẻ sợ hãi. CŨng một vấn đề được triển khai hàng chục bài báo với tiêu đề khác nhau. Ví dụ cụ thể là việc giảm giá bán nhà của PVL. Hay như câu chuyện Tái cấu trúc. Thật nực cưới khi cụm từ này được dùng trong các bài báo một cách tùy tiện và quen đến độ người bán nước chè cũng sử dụng.
Không am hiểu nhiều về Tài chính : chủ thể tham gia vào kênh này chiếm đại đa số không chút kiến thức về Tài chính. Sự tham lam, hay hoảng loạn luôn thường trực. Bản thân họ cũng không mấy hiểu biết về các chỉ số, tình hình tài chính mà tham khảo và vận dụng chủ yếu thông qua các bài báo viết.
Tất nhiên không thể phủ nhận thế giới đang điên đảo, còn nội tại trong nước có quá nhiều vấn đề. Vì thế đã tác động rất nhiều đến tâm lý của mọi nhà đầu tư.


Mỗi một cuộc khủng hoảng là một cuộc sàng lọc, bỏ lại những gì yếu ớt không đủ sức chịu đựng và ĐEM ĐẾN MỘT TƯƠNG LAI MỚI.



Hãy tìm chốn nương náu khi cơn bão tới và xây dựng lại khi cơn bão qua đi.  

Thứ Hai, 21 tháng 11, 2011

8 cuộc suy thoái tồi tệ nhất trong lịch sử nước Mỹ

1. Suy thoái đầu năm 2000
Được châm ngòi bởi sự đổ vỡ của "khủng hoảng chấm com", vụ tấn công khủng bố 11/9, và scandal kiểm toán, cuộc suy thoái kinh tế tại Mỹ trong 3 năm từ 2001 tới 2003 không chỉ ảnh hưởng lớn đến kinh tế Mỹ, mà còn tới nhiều quốc gia châu Âu.
Sự đổ vỡ của các tập đoàn công nghệ trong cuộc khủng hoảng chấm com đã châm ngòi cho giai đoạn suy thoái đầu thế kỷ 21. Ảnh: wordpress.com.
Sự đổ vỡ của các tập đoàn công nghệ trong cuộc khủng hoảng chấm com đã châm ngòi cho giai đoạn suy thoái đầu thế kỷ 21. Ảnh: wordpress.com.
Theo Cục Nghiên cứu Kinh tế Quốc gia (NBER) sau 10 năm phát triển, quãng thời gian mở rộng dài nhất của kinh tế Mỹ, việc nước Mỹ bước vào suy thoái vào đầu những năm 2000 đã được dự báo trước. Mọi chuyện được châm ngòi bởi sự đổ vỡ hàng loạt của các công ty trong cuộc "khủng hoảng chấm com", tạo ra một làn sóng phá sản của các công ty công nghệ và tin học. Kinh tế Mỹ tiếp tục bị giáng một đòn mạnh khi vụ khủng bố 11/9/2001 nổ ra, từ đó khiến chỉ số công nghiệp Dow Jones và các chỉ báo chính của thị trường chứng khoán trải qua tuần tồi tệ nhất trong lích sử.
Dự đoán trước diễn biến tại Mỹ, các nước châu Âu đã giới thiệu đồng tiền chung euro vào ngày 1/1/1999. Tuy nhiên, suy thoái vẫn khiến đồng euro giảm mạnh và cho đến tận năm 2001, đây vẫn là một đồng tiền yếu, và chỉ mạnh trở lại sau năm 2002.
2. Suy thoái cuối thập kỷ 90
Ngày thứ hai đen tối, tháng 9/1987, đà sụt giảm chưa từng có 22,6% trên chỉ số Dow Jones là phát súng báo hiệu thời kỳ suy thoái tồi tệ nước Mỹ. Chỉ trong ba năm, sự sụp đổ của thị trường tín dụng, và cho vay đã đe dọa tiền tiết kiệm của hàng triệu người dân. Một loạt cường quốc chịu nhiều ảnh hưởng của Mỹ như Canada, Australia, Nhật, hay Anh cũng bị cuốn theo vòng xoáy suy thoái.
Dù thị trường chứng khoán hồi phục khá nhanh nhưng thị trường bất động sản, lao động, giá năng lượng, cán cân thương mại và GDP của Mỹ và một số quốc gia khác vẫn đi xuống cho tới 2 năm sau khủng hoảng.
Không chỉ gây ảnh hưởng về kinh tế, tỷ lệ thất nghiệp cao khiến các vẫn đề xã hội trong những năm suy thoái, dưới thời Tổng thống George Bush "cha", như nghiện rượu, ma túy cũng tăng theo.
3. Suy thoái đầu những năm 1980
Cuộc cách mạng tại Iran đã đẩy giá dầu thế giới tăng với tốc độ chóng mặt trong thập niêm 70. Đây chính là tiền đề cho cuộc khủng hoảng kéo dàn 30 tháng tại Mỹ và được coi là lần suy thoái tồi tệ nhất kể từ đại khủng hoảng 1930. Giá năng lượng đi lên kéo theo lạm phát gia tăng, đạt đỉnh 13,5% trong năm 1980, đã buộc Cục Dự trữ Liên bang (FED) phải thực hiện chính sách thắt chặt tiền tệ.
Không chỉ lạm phát, tỷ lệ thất nghiệp cũng tăng một cách đáng lo ngại với từ mức 5,6% của tháng 5/1979 lên 7,5% một năm sau đó. Bất kể kinh tế bắt đầu hồi phục trong năm 1981, tỷ lệ thất nghiệp vẫn được duy trì ở mức cao kỷ lục 7,5% và đạt mức lịch sử 10,8% trong năm 1982.
Hậu quả của suy thoái lên ngành công nghiệp xe hơi, nhà đất, và sản xuất thép tồi tệ đến nỗi các ngành trên liên tục sụt giảm trong 10 năm sau, cho tới tận khi cuộc khủng hoảng tiếp theo kết thúc.
Đây cũng là lần suy thoái kéo dài qua hai nhiệm kỳ tổng thống, ông Jimmy Carter từ 1977 đến 1981, và Ronald Reagan, từ 1981 tới 1989.
4. Khủng hoảng dầu mỏ những năm 1973
Bắt đầu vào ngày 15/9/1975, khủng hoảng dầu mỏ là hậu quả của việc các thành viên OAPEC, gồm tổ chức xuất khẩu dầu mỏ OPEC và hai nước Ai Cập và Syria, thực hiện cấm vận dầu mỏ với Mỹ và các quốc gia ủng hộ Israel trong cuộc chiến với Ai Cập và Syria.
Trước đó vào năm 1971, việc Mỹ rút khỏi Chế độ tiền tệ Bretton Woods, hệ thống quy định chung giữa các cường quốc, trong đó giá vàng chỉ được neo giữ duy nhất vào đôla với giá 35 đôla một ounce, và tiến hành thả nổi đồng đôla là tiền đề cho cuộc khủng hoảng. Lý do là hệ thống Bretton Woods đã giới hạn hoạt động chi tiêu của nước Mỹ và thế giới do lượng vàng của là có hạn trong khi nhu cầu sử dụng tiền lại lớn hơn rất nhiều. Việc Mỹ in tiền phục vụ cho việc tài trợ cho Chiến tranh Việt Nam hoặc viện trợ cho các nước khác đã khiến đôla mất giá, và tăng lạm phát.
Trong giai đoạn khủng hoảng dầu mỏ, tại nhiều bang mỗi người dân chỉ được phép mua một lượng xăng dầu nhất định. Ảnh: waidev2.com.
Để xóa bỏ sự bất hợp lý trên, vào tháng 8/1971 Tổng thống Nixon đã phải rút hẳn khỏi hệ thống Bretton Woods và tiến hành thả nổi đồng tiền. Điều chỉnh trên khiến thu nhập của các nước xuất khẩu dầu giảm sút và các nước này buộc phải có điều chỉnh để tăng giá dầu.
Hậu quả của việc cấm vận dầu lửa là giá dầu tại thị trường thế giới đã bị đội lên gấp 5 lần từ dưới 20 đôla một thùng vào 1971 lên 100 đôla một thùng vào 1979, giá xăng trung bình tại Mỹ cũng tăng 86% chỉ trong 1 năm từ 1973-1974. Cuộc khủng hoảng đồng thời tác động xấu đến thị trường tài chính, chứng khoán toàn cầu, vốn đã chịu nhiều áp lực sau sự sụp đổ của Chế độ Bretton Woods. Thị trường chứng khoán Mỹ bốc hơi 97 tỷ đôla, số tiền khổng lồ vào thời điểm đó, chỉ sau một tháng rưỡi. Suy thoái và làm phát diễn ra tràn lan gây ảnh hưởng tới kinh tế Mỹ và nhiều quốc gia khác cho tới tận thập niên 80.
Không dừng lại ở đó, khủng hoảng dầu mỏ đã tạo ra thay đổi lớn trong chính sách của phương tây, trong đó chú trọng tìm kiếm và bảo tồn năng lượng tự nhiên, cũng như đặt ra các quy định tiền tệ chặt chẽ hơn để chống lạm phát.
Trái lại, biến cố trên góp phần thay đổi đáng kể vị thế chính trị, kinh tế của các nước xuất khẩu dầu, đặc biệt các quốc gia Ả-rập tại khu vực Trung Đông.
5. Suy thoái năm 1958
Trong 2 năm trước khi khủng hoảng diễn ra, chính sách thắt chặt tiền tệ và cắt giảm đầu tư tại Mỹ khiến tỷ lệ thất nghiệp gia tăng. Tại Detroit, trái tim của ngành công nghiệp xe hơi, tỷ lệ thất nghiệp đạt mức 20% trong tháng 4/1958 . Doanh số bán xe giảm tới 31% trong năm 1957, và biến năm 1958 thành năm tồi tệ nhất cho các nhà sản xuất xe kể từ sau kể từ sau Chiến tranh Thế giới lần II. Nhu cầu nhập khẩu tại Mỹ vẫn cao trong khi châu Âu lại giảm nhập khẩu từ Mỹ khiến thâm hụt thương mại leo thang.
Tệ hơn nữa, thay vì mặt bằng giá giảm, điều thường xảy ra khi suy thoái, giá cả trong giai đoạn 1957 đến 1959 lại leo thang. Thực tại trên đã gây không ít hoang mang cho các nhà kinh tế trong quãng thời gian này.
Nhiều quốc gia chưa phát triển sống dựa vào xuất khẩu tài nguyên như vật liệu thô, khoáng chất, hoặc sản phẩm nông nghiệp cũng gặp nhiều khó khăn do nhu cầu sụt giảm tại Mỹ và châu Âu.
6. Suy thoái năm 1953
Dù chỉ kéo dài trong 10 tháng, bắt đầu từ quý II /1953 tới quý I/1954, cuộc suy thoái năm 1953 vẫn gây thiệt hại ước tính lên tới 56 tỷ đôla cho nước Mỹ.
Nguyên nhân suy thoái bắt đầu từ một số biến động chính trị, kinh tế những năm đầu thập niên 50. Trong đó, lạm phát leo thang bắt đầu từ 1951, sau chiến tranh Triều Tiên, khiến lãnh đạo FED dự đoán năm 1952 lạm phát sẽ còn cao hơn. Trước tình hình đó, FED đã áp dụng chính sách tài khóa thắt chặt, thể hiện ở việc cắt giảm chi tiêu Chính phủ, tăng thuế, lãi suất, và tích lũy dự trữ. Chính các biện pháp mạnh tay trên đã tạo ra sự bi quan trong người dân, dẫn đến việc giảm chi tiêu tăng tiết kiệm, gây suy giảm tổng cầu của nền kinh tế.
7. Suy thoái năm 1947
Lần suy thoái này của nước Mỹ bắt nguồn từ những bước tiền thần tốc của giai đoạn hồi phục kinh tế sau chíến tranh thế giới. Tính tới đầu năm 1947, nước Mỹ chiếm tới 50% tổng sản lượng nông nghiệp toàn thế giới, trước chiến tranh thế giới con số này chỉ là 30%, tỷ lệ thất nghiệp của nước Mỹ cũng ở mức thấp kỷ lục khi gần như 100% người lao động có việc làm. Năm 1947 chính là giai đoạn kinh tế Mỹ đạt đỉnh của chu kỳ tăng trưởng sau chiến tranh. Cũng từ thời điểm này, ngoại trừ lương thực, nhu cầu tiêu thụ hàng hóa nói chung của nước Mỹ đã trở nên bão hòa do hàng hóa được sản xuất nhiều tới mức thừa mứa.
Dù Tổng thống Truman cũng như nội các của ông đã dự đoán được rủi ro từ lạm phát cũng như những bất ổn kinh tế, nhưng lãnh đạo nước Mỹ lại không tính tới lạm phát gia tăng tại phần còn lại của thế giới. Dù hậu quả của cuộc suy thoái 1947 là không quá tồi tệ nhưng nó cũng đủ gây trì trệ kinh tế, khiến nhiều doanh nghiệp phá sản cũng như tỷ lệ thất nghiệp leo thang.
8. Đại suy thoái năm 1930
Cuộc đại suy thoái hay còn gọi là đại khủng hoảng diễn ra cách đây đã gần 8 thập kỷ nhưng vẫn ghi dấu ấn là giai đoạn suy sụp kinh tế tồi tệ nhất trong lịch sử hiện đại. Bắt đầu vào năm 1929 và kết thúc vào thởi điểm chuyển giao giữa hai thập niên 30 và 40, cuộc suy thoái có sức ảnh hưởng hủy diệt với kinh tế toàn cầu, cả các nước phát triển và đang phát triển. Mọi khía cạnh của nền kinh tế từ sản xuất, tiêu dùng, thương mại, thu nhập cá nhân, hoạt động tiêu dùng, thị trường lao động, lạm phát đều chịu ảnh hưởng xấu. Các nước phụ thuộc nhiều vào công nghiệp chịu tác động sâu sắc nhất. Ngoài ra khu vực nông nghiệp cũng điêu đứng khi giá ngô, một trong những nông sản chính tại phương tây, giảm tới 60%.
Bức ảnh nổi tiếng của Nhiếp ảnh gia Dorothea Lange về một bà mẹ di cư được coi là hình ảnh tiêu biểu cho khó khăn của người dân trong giai đoạn đại khủng hoảng. Ảnh: blogs.zdnet.com.
Bức ảnh nổi tiếng của Nhiếp ảnh gia Dorothea Lange về một bà mẹ di cư được coi là hình ảnh tiêu biểu cho khó khăn của người dân trong giai đoạn đại khủng hoảng. Ảnh: blogs.zdnet.com.
Có nhiều ý kiến khác nhau về nguyên nhân cho cuộc suy thoái, chẳng hạn như sự sụp đổ hàng loạt của các ngân hàng hay thị trường chứng khoán, được đánh dấu bằng "ngày thứ ba đen tối" 29/10/1929, hay suy giảm giao dịch quốc tế do Mỹ tăng thuế. Tuy nhiên, ý kiến chung được nhiều nhà kinh tế đồng thuận, trong đó có cả đương kim Chủ tịch FED, ông Ben Bernanke, là do yếu tố cung của nguồn tiền cũng như sai lầm trong điều hành của FED.
Theo đó, trong thập niên 20, mở rộng cung tiền quá mức đã dẫn đến sự phát triển bùng nổ nhưng thiều bền vững của khối tài chính. Việc FED nhận ra rủi ro và thực hiện chính sách thắt chặt tiền tệ là quá muộn để ngăn chặn suy thoái. Hơn nữa, khi các ngân hàng lớn có dấu hiệu sụp đổ FED đã không tích cực cứu trợ, từ đó tạo ra hiệu ứng sụp đổ dây chuyền trong ngành ngân hàng, dẫn đến cạn kiệt đột ngột nguồn tiền. Hệ quả là nhiều công ty phá sản do thiếu vốn, hoạt động sản xuất, kinh doanh tiêu dùng bị đình trệ, thất nghiệp tràn lan gây ảnh hưởng to lớn tới kinh tế Mỹ và toàn thế giới.

Thứ Năm, 3 tháng 11, 2011

QUẲNG GÁNH NỢ ĐI VÀ VUI SỐNG

Trên chuyến bay về lại Việt Nam, một giáo sư kinh tế ngồi cạnh đã làm tôi cười ngất khi anh bàn thảo suy tư là tài chánh hoàn cầu sẽ thay đổi ra sao “nếu” Hy Lạp phá sản không trả nổi nợ. Anh này sống trong tháp ngà hơi lâu. Nếu anh chịu khó ghé thăm hay đọc qua lich sử cận đại của Hy Lạp, anh sẽ biết rằng người dân Hy Lạp không bao giờ trả thuế dù bị đòi. Thói quen này cũng được các ngài chánh trị gia nghiêm túc như Tổng Thống, Thủ Tướng, Nghị Sĩ…triệt để áp dụng. Thuế còn không trả thì làm sao dân Hy Lạp sẽ “lo” trả nợ công?
Những ồn ào từ các mạng truyền thông chỉ là áp lực từ các ngân hàng lớn để các lãnh đạo của EU (Liên Hiệp Âu Châu) phải đứng ra cứu bồ và lấy tiền dân Đức, dân Pháp trả nợ dùm Hy Lạp. Tôi chắc chắn với anh bạn là Hy Lạp sẽ không bao giờ trả nợ. Nếu Thủ Tướng Đức Merkel và Tổng Thống Pháp Sarkozy không còn vốn chánh trị để đổ tiền dân vào các thúng lũng PIGS (Portugal, Ireland, Greece and Spain), thì EU coi như sắp giải thể. Tôi còn nói anh nhớ đọc bài “Kẻ cắp gặp bà già” tôi viết cách đây mấy tháng.
Thực ra, nếu các nhà trí thức biết chút đỉnh về lịch sử kinh tế thì chuyện Hy Lạp là một chuyện hết sức bình thường. Vì tham và ngu, các vị quản lý ngân hàng thường đem tiền cho vay bừa bải đến những quốc gia và dân tộc mà họ biết là vô trách nhiệm và hư đốn. Mục tiêu là kiếm phí cho vay và lãi suất để có bonus cuối năm và nghề nghiệp được thăng tiến. Các quốc gia có chánh phủ quản lý tốt thường ít khi vay mượn và do đó, không phải là khách hàng tốt.
Năm 2001, Argentina vay nợ ngập đầu như Hy Lạp và tuyên bố sẽ không trả nợ dollar bằng dollar nữa mà sẽ trả bằng peso. Vì họ tha hồ in tiền peso, nên tất cả nợ của Argentina từ chánh phủ đến người dân bị (hay được) giảm giá hơn 80%. Nhà nước thì đã in sẵn mấy đêm hôm trước tiền peso, còn các doanh nghiệp tư nhân thì hồ hởi trả nợ bằng đồng peso rẻ mạt. Các ngân hàng Âu Mỹ méo mặt, nhiều quan giám đốc phải từ chức, nhưng chẳng ai chết trong vụ quỵt nợ lớn lao này. Vài năm sau, các giám đốc ngân hàng mới lại cần bonus và lãi suất, nên họ cố quên chuyện cũ và lại cho Argentina vay thoải mái.
Bài học này được Mexico và Brazil học hỏi, dọa đem áp dụng để tránh trả nợ. Các viên chức của Quỹ Tiền Tệ Thế Giới (IMF) sợ ảnh hưởng toàn cầu, nên phải lạy lục mãi, Mexico và Brazil mới nhận tiền IMF và bỏ ý định bắt chước Argentina.
Xa hơn nữa trong lich sử, ta thấy Hitler tuyên bố không trả nợ cho các chủ nợ Âu Mỹ vào năm 1933 và các lãnh đạo Âu Mỹ chỉ biết cười trừ. Số nợ tương đương với 100 ngàn tấn vàng và dĩ nhiên, Đức phải mất cả 300 năm mới thanh toán nổi, nên Hitler chỉ cần nói NEIN. Trước đó, năm 1918, khi đế quốc Áo-Hung (Austrian-Hungary) sụp đổ, bản tệ Austro-Marks bị xóa sổ và các nước liên minh lại quay về với tiền cũ của mình như drachma cho Hy Lạp, marks cho Đức và peseta cho Tây Ban Nha. Gần đây, Mahathir của Mã Lai không cho dollar xuất khẩu khi đối diện với nợ dư do cuộc khủng hoảng tài chánh Á Châu năm 1997 đem lại.
Cho nên khi các nhà kinh tế Việt lo lắng là nợ chánh phủ đã lên đến 52% GDP và nếu tính thêm nợ của các doanh nghiệp nhà nước thì có lẽ nợ công Việt Nam đã vượt ngưỡng 100% GDP. Cộng vào nợ tư nhân bằng dollar hay Euro hay Yen thì Việt Nam có thể qua mặt Mỹ và gần ngang hàng với Hy Lạp về nợ nần.
Nhưng tôi nhìn sự cố này với một góc cạnh khác biệt. Trong khi Mỹ không thể xù nợ vì sĩ diện của đế chế và EU không muốn giải thể vì nợ Hy Lạp, thì chúng ta chẳng có gì để mất. Một cá nhân bị phá sản phải chịu nhiều áp lực như mất nhà, mất xe..(cũng dễ bị mất vợ con và nhân tình nữa). Nhưng một quốc gia phá sản thì lại được tiếng tăm là dũng cảm, dám thách thức Âu Mỹ và nền kinh tế toàn cầu hóa. Tôi cũng tò mò muốn xem các chuyên gia IMF lăng xăng qua Việt Nam van lậy, “ông đừng chơi trò này, ông cần bao nhiêu tôi cho mượn thêm”.
Cho nên, tôi khuyên các quan chức là cứ vay mượn thỏai mái, nhất là tiền nhân dân tệ (RMB) của Trung Quốc đang tìm chỗ đậu. Khi nợ công lên đến 200% GDP, ta sẽ ra một quyết nghị số 35 là sẽ trả mọi món nợ bằng tiền VN đồng, kể cả nợ tư (tất cả đại gia Việt sẽ tri ơn chánh phủ). Tôi đảm bảo cuộc sống của dân Việt sẽ không bị chút anh hưởng gì, ngoài việc các cậu ấm cô chiêu sẽ không còn xài được hàng hiệu, các đại gia không còn được nhậu Hennessy hay Moet và các quan chức cũng hết cơ hội kiếm chác với các dự án khủng. Thế giới sẽ không cho Việt Nam vay nợ trong vài ba năm để trừng phạt, nhưng đây là liều thuốc tốt vì nó tập cho chánh phủ và người dân lối tiêu xài trong khả năng thu nhập của mình.
Mặt trời vẫn mọc, không ai chết, cha mẹ có thì giờ dậy dỗ con cháu và thế giới chúng ta sẽ an bình hơn một chút.

Thứ Hai, 31 tháng 10, 2011

“Mổ xẻ” nợ xấu của 8 NHTM niêm yết

Tổng nợ xấu của 8 NHTM niêm yết tính tại thời điểm 30/9/2011 lên tới gần 15.018 tỷ đồng. Trong đó nợ có khả năng mất vốn là 8.293 tỷ đồng. VCB có nợ xấu cao nhất 3,9%.
8 NHTM niêm yết trên hai sàn đều đã công bố kết quả kinh doanh quý 3 và 9 tháng đầu năm 2011 của ngân hàng mẹ. Theo đó, duy nhất Habubank (HBB) có LNST giảm nhẹ 6% so với cùng kỳ 2010, còn lại các ngân hàng khác đều tăng trưởng mạnh, đặc biệt Eximbank (EIB) tăng trưởng 65%, Vietinbank (CTG) tăng trưởng 49%, Navibank (NVB) tăng trưởng 30% so với cùng kỳ 2010.
Tăng trưởng tín dụng
Tính đến 30/9/2011, tăng trưởng tín dụng của ngân hàng mẹ NVB đã lên tới 19,5%, của CTG là 16,6%, của SHB là 16,3%, của ACB là 15,1%. Habubank có tỷ lệ tăng trưởng tín dụng thấp nhất, tăng 0,6% so với đầu năm, tiếp theo là STB 3,6%.
Ngân hàng
CTG
VCB
STB
EIB
ACB
SHB
HBB
NVB
Tổng dư nợ 
tại 30/9/2011
271,677
188,473
80,149
69,524
99,719
28,252
18,685
12,869
Tăng trưởng tín dụng
16.60%
7.30%
3.60%
11.50%
15.10%
16.30%
0.60%
19.5%
Nợ xấu 
đến cuối T9/2011
1.40%
3.90%
0.60%
1.50%
1.10%
1.50%
2.80%
2.80%
Nợ xấu 
cuối năm 2010
0.70%
2.80%
0.50%
1.40%
0.30%
1.40%
2.40%
2.20%
Trích lập dự phòng 
9 tháng 2011
2,185
1,687.40
383.6
164
303.8
41.87
137
31.76
Lợi nhuận sau thuế
9 tháng 2011
4,129
3,308.60
1593.6
2028
2101.4
533.5
391.6
147.4
Tăng trưởng LNST so với cùng kỳ 2010
49%
6%
6%
65%
15%
32%
-6%
30%
(Nguồn: BCTC riêng lẻ của các NHTM quý 3/2011)
Dư nợ cho vay của CTG tính đến cuối quý 3/2011 là gần 271.680 tỷ đồng; điều này lý giải về việc thu nhập lãi thuần (cho vay) của Vietinbank trong quý 3/2010 tăng tới 80% so với quý 3 năm ngoái, 9 tháng tăng 76% cùng kỳ 2010; thu nhập lãi thuần của NVB cũng tăng tới 45% cùng kỳ 2010…
Tuy nhiên nếu theo chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng dưới 20% của NHNN thì “room” cho vay của Navibank trong quý 4/2011 không còn nhiều.
Tuy nhiên, đằng sau câu chuyện tăng trưởng lợi nhuận thì câu chuyện nợ xấu đang là mối quan tâm hàng đầu của giới đầu tư đối với các NHTM lúc này.
VCB có tỷ lệ nợ xấu cao nhất khối NHTM niêm yết
Theo Quyết định 493/2005/QĐ-NHNN, nợ xấu là các khoản nợ thuộc các nhóm 3 (nợ dưới tiêu chuẩn), nợ nhóm 4 (nợ nghi ngờ) và nợ nhóm 5 (nợ có khả năng mất vốn).
Nếu căn cứ theo Quyết định 493 về phân loại nợ, thì Vietcombank (VCB) bất ngờ lại là ngân hàng có nợ xấu cao nhất 3,9%, tiếp theo là NVB (2,8%), HBB (2,8%). Sacombank (STB) là ngân hàng có tỷ lệ nợ xấu thấp nhất (0,6%).
Hầu hết các NHTM niêm yết đều có tỷ lệ nợ xấu tăng mạnh so với cuối năm 2010. Đáng chú ý, nợ có khả năng mất vốn (nợ nhóm 5 – phải trích lập dự phòng 100%) tăng mạnh.
Tại 30/9/2011
CTG
VCB
STB
EIB
ACB
SHB
HBB
NVB
Tổng cộng
Nợ có khả năng mất vốn (nhóm 5) - tỷ đồng
1,691
4,950
169
490
263
233
351
147
8,293
Nợ nhóm 2 (nợ cần chú ý) của HBB chiếm 24% tổng dư nợ, của VCB là 18,78% tổng dư nợ. Mặc dù nợ nhóm 2 chưa được tính vào nợ xấu nhưng chỉ cần các khoản nợ này quá hạn trên 90 ngày hoặc các khách hàng có thêm một khoản nợ bị chuyển vào nhóm rủi ro cao hơn thì khoản nợ đó sẽ bị cơ cấu lại thành nợ xấu. Tỷ lệ nợ nhóm 2 cao cũng là một tín hiệu đáng lưu ý.
Tổng nợ xấu của 8 NHTM niêm yết tính tại thời điểm 30/9/2011 lên tới gần 15.018 tỷ đồng. Trong đó tổng nợ nhóm 5 (nợ có khả năng mất vốn) lên tới 8.293 tỷ đồng.
Theo quyết định 493, nợ nhóm 1 không phải trích lập dự phòng, nợ nhóm 2 trích lập dự phòng 5%, nợ nhóm 3 là 20%, nợ nhóm 4 là 50% và nợ nhóm 5 phải trích lập đủ 100%.
Rủi ro thanh khoản
Nếu nhìn vào cơ cấu kỳ hạn huy động vốn và cho vay của các NHTM, chúng ta sẽ không khỏi "giật mình" vì ngoại trừ các NHTM lớn có vốn huy động dài hạn, các NHTM nhỏ hầu như không có khoản tiền gửi trên 5 năm, đa số là các khoản tiền gửi 1 tháng đến 3 tháng.
99,8% tiền gửi của khách hàng NVB (không tính tiền gửi và vay của NHNN và các TCTD khác) là các khoản tiền gửi dưới 1 năm trong đó 72,4% là tiền gửi dưới 1 tháng, 22,4% là tiền tửi từ 1-3 tháng, không có khoản tiền gửi nào trên 5 năm.
SHB cũng ở tình trạng tương tự với 99,85% khoản tiền gửi của khách hàng là tiền gửi dưới 1 năm trong đó tiền gửi dưới 1 tháng chiếm tới 71,7%.
CTG, STB, EIB có khoản tiền gửi trung hạn tương đối cao so với các ngân hàng khác. CTG có tỷ lệ tiền gửi trên 5 năm khá cao so với các NH khác.
Các NHTM cho vay trung và dài hạn trong khi các khoản tiền gửi của khách hàng lại chỉ tập trung vào các kỳ hạn ngắn từ 1-3 tháng sẽ khiến các ngân hàng có thể gặp rủi ro về thanh khoản. Hơn nữa, nợ xấu tăng nhanh qua các tháng, đặc biệt nợ có khả năng mất vốn tăng cao (lên tới 8.293 tỷ) là 1 khó khăn của các ngân hàng hiện nay.