Trong nhiều lần nhận định, tôi đã đề cập đến vấn đề giá Vàng trong nước khác thường với Thế giới. Mà điều khac thường này bắt nguồn từ khi NHNN cho phép bán Vàng bình ổn. Và như những dự báo, nếu giá Vàng Thế giới xuống thấp, điều gì sẽ chờ đón.
Vừa nhận được thông tin từ bài viết này : http://hcm.24h.com.vn/tai-chinh-bat-dong-san/ngan-hang-che-vang-c161a426786.html
Thời điểm này Vàng thế giới đang giảm rất mạnh và có thể còn giảm sâu về ngưỡng 1.4..$/ouz. Chỉ khi nào chúng ta nhận thấy đồng USD giảm manh hoặc tín hiệu bơm tiền tiếp theo của FED. Tuy nhiên khi nền kinh tế đang có dấu hiệu hồi phục trở lại, việc hy vong vào FED bơm tiền ồ ạt như lần trước là không bao giờ diễn ra. Mà nếu có chỉ là động thái nhỏ rọt, do vậy, kỳ vọng vaò giá vàng thế giới tăng mạnh là điều rất khó nếu bối cảnh này vẫn tiếp diễn mà không có bất cứ bất thường nào xảy ra.
Vơi TT Vàng VN, giờ đang rất nhiều vấn đề mà chúng ta cần quan sát tiếp thời gian tới. Khi động thái các Bank đang k nhận thế chấp bằng các khoản vay Vàng, đồng nghĩa nếu rủi ro Vàng sẽ có đợt bán tháo..
Thứ Sáu, 30 tháng 12, 2011
Thứ Ba, 20 tháng 12, 2011
QUÝ 1/2012 - ĐIỀU GÌ SẼ XẢY RA
Năm 2011 săp qua đi, phải công nhận răng năm 2011 là một năm cực kỳ tồi tệ. Những ai am hiểu Tài chính kinh tế đều có cảm nhận nỗi lo sợ về điều gì đó đổ vỡ đang sắp xảy ra. Hãy điểm qua tình hình vài điểm nóng và tính hình trong nước để có cái nhìn rõ hơn.
Nước Mỹ :
- GDP quý 3 tăng trưởng mức 2% thấp hơn so với dự đoán là 2,5%. Tuy nhiên so với Q2/2011 là 1,3% đã cho thấy mức tăng trên là khá tốt và dự báo Q4/2011 sẽ có mức tăng tốt hơn nữa.
- Dự trữ hàng tồn kho giảm nhanh từ mức 8,5 tỷ xuống còn 5,4 tỷ $. Trong khi đó nhu cầu tiêu dùng tăng mạnh với mức tăng 2,3% (thấp hơn dự báo 2,4%) nhưng cao nhất từ năm 2010 đến nay.
- Với tình hình khả quan từ Quý 3, nhiều người kỳ vọng vào Quý 4/2011 sẽ mang lại nhưng con số tốt hơn.
Tuy nhiên, với thế giới đầy bất ổn, chung ta cần chờ đợi vào con số thực tế mà Mỹ sẽ công bố trogn Q4/2011. Nhiều khả năng sang Q1/2012 nước Mỹ sẽ chịu tác động mạnh từ việc đồng Dollar lên giá.
Châu Âu :
- Nước Pháp có vấn đề về Kinh tế (theo đanh giá của S&P). Trogn khi đó Pháp và Đức lại là hai chủ thể chính trong công cuộc taisi thiết lại vấn đề nợ công của Châu ÂU
- Trong khi đó Đức lại không ủng hộ việc phát hành Trái phiếu chung Châu Âu vì rõ ràng điều đó đánh đồng mọi thứ, nước Đức an toàn bỗng dưng lại gánh nợ nần cho các Quốc Gia khác
- Trong phiên họp vừa qua, trong khi 26/27 thành viên Châu Âu thống nhất về cuộc giải cứu mà Pháp – Đức đề xuất thì nước Anh lại đứng ngoài cuộc chơi. Theo đanh giá các chuyên gia thì trong kế hoạch này tác động rất lớn đến Thị trường Tài chính hùng mạnh của Anh tại Luân Đôn. Vì thế nhiều lo lắng lại đến khi thế giới cho rằng Châu Âu đang chia rẽ
Thị trường tiền tệ :
- Với lo ngại về Châu Âu, nhà đầu tư liên tục mua vào đồng Dollar Mỹ. Điều này khiến cho đồng USD lên giá với hầu hết các đồng tiền khác. Đánhh giá vấn đề này có mấy điểm sau :
ü Tỷ giá EUR/USD từ 1,5 xuống hiện nay là 1,3 và dự báo đáy của nó có thể là 1. Có nghĩa 1 EUR = 1 USD. Châu Âu sẽ có kế hoạch tiếp tục với lãi suất thấp và có thê rmanh tay hơn là giảm giá đồng tiền EUR nhằm giam bớt áp lực với hàng loạt trái phiếu đáo hạn sắp tới. Trái phiếu Châu Âu được phát hành bằng đồng USD. Vì thế nếu như EUR hạ giá từ 1,5 về 1 thì đồng nghĩa khoản nợ sẽ giảm tương ứng 50%.
- Tuy nhiên khi thế giới đang bấp bênh, mọi con mắt hiện giờ đang trông cậy vào nước Mỹ và Nhật. Nước Nhât và Mỹ đang cho thấy sự hồi sinh và người ta kỳ vọng vào 2 quốc gia này sẽ gánh đỡ cho thế giới và năm 2012. Tuy nhiên đồng USD lên giá lại k có lợi cho Mỹ (lợi cho Nhật Bản). Vì thế khi có con số thông kê về kinh tế Q4/2011, FED sẽ quyết định với đồng USD. Liệu QE3 có thể sẽ xảy ra??
- Tháng 10/2011, do đồng JPY lên giá qua mạnh so với các ngoại tệ khác, tỷ giá USD/JPY từ mức 85 hồi tháng 3 giam mạnh về mức 75 khiến cho các DN Nhật Bản kinh doanh ngaofi lãnh thổ liên tục báo lỗ. Vì thế Nhật Bản đã khẩn cấp bơm ra thị trường 10.000 tỷ JPY nhằm chặn đà tăng giá. Với việc USD lên giá khiến tỷ giá đang có lợi cho nước Nhật mà không cần can thiệp.
- Có 2 đồng tiền sẽ giảm mạnh trong năm 2012 là : CHF (thụy Sỹ) và SGD (Singapore). Tỷ giá USD/SGD từ mức 1,2 tháng 7-8/2011 và hiện tại là 1,307. Còn tỷ giá USD/CHF từ mức 0.71 Tháng 7-8/2011 và hiện tại là 0.9371.
- Vì thế, khi con số về kinh tế Mỹ Quý 4 đươọc công bố, nếu như không khả quan, việc FED sử dụng tiếp QE3 trở nên rõ ràng hơn thì tỷ giá các đồng tiền trên sẽ bị tác động theo chiều ngược lại.
Vàng :
- Tháng 6 khi Châu Âu bắt đầu có biểu hiện của sự đổ vỡ mà Hy Lạp là nguồn cơn. Mọi lo lắng đổ dồn và người ta lo sợ sự đổ vỡ và bắt đầu tìn đến Tài sản an toàn. Thực tế thời gian này không chỉ Vàng mà hàng loạt các tài sản khác đều lên giá rất mạnh. Bạc – platium – Đồng – Nhôm … tất cả đều lên giá rất mạnh. Vàng được nhiềun nhà đầu tư thu mua mạnh khiến giá Vàng lên thẳng đứng tạo đỉnh tại mức 1934 USD/ouz.
- Tuy nhiên, khi Châu Âu thực sự lâm bệnh nặng và bản thân nhiều nguyên thủ và nhà lãnh đạo hàng đầut hừa nhận về tình hình bi đát của Châu Âu thì giá Vàng lại giảm không phanh. Có lúc điểm thấp nhất từ đỉnh là 15.,,,, Vậy nguyên nhân là gì? ở đây rõ ràng là hai yếu tố : khi Mỹ in quá nhiều USD và cho vay với lãi suất cực thấp khiến đồng USD chạy đến mọi ngóc ngách xã hội. Đồng tiền nằm quá nhiều tại các Quỹ mà không thể sinh lời. Điều này khiến nhiều Quỹ lợi dụng tình thế đã đấy giá hàng loạt các mặt hàng, bất kể loại hàng hóa nào. Khi yếu tố đầu cơ không còn thì Vàng không còn ý nghĩa nữa.
TRONG NƯỚC :
- Ngân hàng : năm 2011 là năm cực kỳ tồi tệ với lĩnh vực này. Rối loạn, biểu hiện cho một chu kỳ tăng nóng. Hàng loạt Ngân hàng có vấn đề. Nợ xấu tràn lan, có Bank nợ xấu lên hơn 10% thì coi như đổ vỡ rồi. Vì thế NHNN nhiều lần phải đăng đàn đảm bảo về tinhsthanh khoản cho tất cả các khoản gửi.
Vay interbank phải có thế chấp. Đây là hệ lụy của hàng loạt các Bank vay trên Thị trường 2 bùng nợ.
Ba bank phải hợp nhất gồm : FICOBANK – Tín nghĩa Bank – SCB Bank tạo thành Bank mới tên SCB mà BIDV đưng sau chống lưng với mức vốn điều lệ 10.500 tỷ đồng
Nhận định : Xu hướng điều hành mới sẽ xuất hiện, Không đi vào việc quản lý theo số lượng. Khả năng yêu cầu tăng vốn điều lệ sẽ bị thay thế. Phạm vi hoạt động của từng Bank sẽ căn cứ trên thực tế và các chỉ tiêu tín dụng cũng vậy. Có nghĩa bé hoạt động theo bé, lớn hoạt động theo lớn. Nghị quyết là đến 2015 sẽ thành nhóm G + 15 thay cho G+12 như hiện nay. Và vốn điều lệ Bank lớn nhất có thể lên đến 1 tỷ USD.
Như vậy, cơ cấu ổn định nhóm này đã rõ ràng và cái cần là liệu điều haành có như vậy?
- Lạm Phát : CPI đang giam tốc sau 1 thời gian dài kiềm chế lạm phát. Lo lắng nhất là tháng cận Tết, khi mà chỉ số thường tăng giá mạnh vào dịp này. Bài toán phải giải quyết hiện nay :
Lãi cao à DN chết à Cung trong nước ít đi à Nhâp khảu tăng mạnh à Tỷ giá có vấn đề và NK cả lam phát về à CPI lại tăng mạnh trở lại
Để giảm Lãi suất thì phải làm sao CPI giảm. Quan niệm CPI còn cao thì LS chưa thể giảm do không thể là LS thực dương. Vì thế trong tháng Tết này Chính phủ chỉ đạo sẽ dùng một nguồn lực nhằm bình ổn giá cả. Vì thế mọi hành vi trong thời điểm này rất nhạy cảm và có thể trở thành vi phạm pháp luật.
- Tỷ giá : Như đã nói ở trên, đồng USD đang lên giá mạnh so với các đồng tiền khác, vì thế những tháng cuối năm này việc ổn định tỷ giá là điều rất quan trọng. Tuy nhiên do giá Vàng trong nước và thế giới đang chênh lệch quá lớn khiên cho tình trang nhập lậu Vàng sẽ diễn ra. Đồng USD sẽ được thu gom mạnh hơn để nhập khẩu Vàng về. Đây sẽ là yếu tố tác động mạnh hơn đến Tỷ giá.
Yếu tố giúp cho việc điều hành ty giá hiện nay là : Kiều hối năm 2011 khá cao trong bối cảnh kinh tế thế giới hiện nay. Và nhu cầu tiêu dùng trong nước đang chậm lại do khó khăn về kinh tế kéo dài. Điều này làm cho NK giảm mạnh hai tháng trở lại đây.
Đầu năm 2011 khi mà LS đồng VN tăng quá cao, trong khi LS USD lại thấp khiến nhiều DN đi vay USD rồ I bán lại cho Bank và lấy tiền VND gửi. Điềunaàyaoạora hệ lụy khi đáo hạn là Cầu USD sẽ tăng mạnh vào 1 thời điểm. Đây cũng chính là sức ép lên tỷ giá cuôi năm.
Cán cân thanh toán của Việt Nam tiếp tục thâm hụt, kể cả trong năm 2012 tới. Dù năm 2011 này Nhập siêu đã giảm bớt nhưng vẫn còn quá cao.
- Vàng : Vàng VN chênh lệch quá lớn với giá vàng thế giới. Hệ lụy của nó chính là chính sách mà NHNN thực thi thời gian vừa qua vơi hàng loạt các Thông tư 32-33 và 34/NHNN. Theo đó NHNN cho phéo 05 Bank được huy động Vàng và bán lại co dân cư có nhu cầu. Điềun ày tạo thành Vòng quay với giới đầu cơ như sau :
Họ có Vàng gửi vào Ngân hàng A, rồi dùng chứng chỉ này sang Ngân hàng B vay tiền và quay lại mua tiếp Vàng và lại gửi và lại thế chấp mua. Vì thế mà con số vàng bán ra bình ổn hồi tháng 9-10 lên đến hơn 10 tấn Vàng = tương đơng 13.000 tỷ đồng. Trong khi tiền VND thời đeểm này khá khan hiếm thì con số trên quả là “ấn tượng”
Hơn nữa NHNN cho phép Vàng SJC thành Vàng quốc gia khiến cho hàng loạt các thương hiệu Vàng khác khốn đốn.
Chính sách về Vàng và việc Vàng đang neo giá chệnh lệch lớn với thế giới khiến nhiều người đang đặt ra câu hỏi? Câu trả lời sẽ đến nếu như giá Vàng liên tục chênh lệch như thế và nếu giá Vàng xuống sâu hơn nữa thì hệ lụy thật khó lường.
ĐIỀU GÌ SẼ XẢY RA TRONG QUÝ 1/2012 :
- Điều chỉnh lãi suất : Lãi suất phải giảm nếu không muốn kinh tế tiếp tục đình đốn và lạm phát lại quay trở lại do Nhâp khẩu Lạm phát và thiếu Cung. CPI giảm là LS sẽ giảm. Đó là quan điểm mà kể cả người dân lẫn các nhà hoạch định đều tin tưởng. Vì thế áp lực Tháng Tết với CPI đã được Chính phủ khống chế bằng việc hỗ trợ và trợ giá cho hang loạt các mặt hàng. Hơn nữa, trong bối cảnh kinh tế khó khăn, cầu tiêu thụ Tháng Tết sẽ không mạnh như các năm trước. Vì vậy chắc chắn lãi suất sẽ giảm.
Dự báo cận Tết hoặc sau Tết. Mức giảm đầu tiên sẽ là đánh vào LSHĐ từ trần 14% về 12%. Có thể lãi suất trần 1 năm cho phép là 14%. Bởi hiện nay, LS dài hạn lại thấp hơn ngắn hạn, đó là sự bất ổn. Mức huy động càng dài thì Bank đỡ đi nhiều khoản dự phòng theo quy định và làm ổn định hơn tình hình tại các Bank.
- Đau đầu tỷ giá : Vàng chênh lệch khiến Dollar Mỹ tự do bị thu gom mạnh. Hơn nữa việc Nhâp khẩu hàng Tết và việc đáo hạn các khoản Vay Dollar cũng tạo áp lực lên tỷ giá. Nếu như Vàng tiếp tục chênh lệch sẽ có nhiều cuộc kiêm tra và việc mua bán ngoại tệ sẽ giống vụ Phan Xích Long. Dự báo từ nay đến Tết có thể NHNN sẽ điều chỉnh thêm 1 chút về tỷ giá.
- Vàng đang có vấn đề? Tại sao gia thế giới tương đương 40,2 triệu thì Việt Nam lại luôn là mức 43-44 triệu. Như giải thich bên trên, có lý do riêng từ chinh sách và ngầm là giới đầu cơ mà chưa ai đưa ra cụ thể. Vì thế Vàng không nên là kênh đầu tư trong thời điểm này. Hơn nữa khi Vàng thế giới vẫn tiếp tục giảm do đồng USD lên giá thì khả năng Vàng giảm về vùng 1.483 USD?ouz là khá cao. Chỉ khi nào FED tuyên bố rằng QE3 sẽ được thực thi thì Vàng có cơ hội tăng giá trở lại. Khi đó giá tại VN và thế giới chưa biết ra sao. Nếu giá Vàng thế giới giảm sâu thì có thể cuộc khủng hoảng Vàng lại xuất hiện.
- BĐS : Ngay càng kiệt quệ là câu chuẩn xác nhất với giới Kinh doanh địa ốc. Vay 1 tỷ đồng sau năm trả lãi 240-250 triệu thì chẳng mấy chốc biếu không. Hơn nữa sóng Đất Đông Anh xuất hiện từ Tháng 2 đến T4/2011. Vì thế thời điểm này tín dụng vay khá lớn và chắc chắn se phải đáo hạn. Các Bank sẽ không thể nới thêm thời gian. Vì thế nếu không muốn vừa bị phát mại tài sản mà vẫn còn mắc nợ thì hiện tại tốt nhất là tìm cách bán.
Dự báo : Thời điểm T2-T4/2012 BĐS sẽ chịu thêm áp lực giảm giá mà khu vực phía Bắc sẽ là chủ yếu.. Khu vực Miền Nam do trầm lắng khá lâu nên áp lực này sẽ không lớn. Theo dự báo thì giá Chung cư có thể giảm sút thêm 10-15% nữa.
- TTCK : Năm 2011 nói đúng là năm thất bại toàn diện với lĩnh vực này. Hiện nay đã gần hết năm 2011, lỗ cũng đã lỗ rồi. Tuy nhiên thời điểm cuối năm, dong tiền mặt vẫn rất khan hiếm khiến cho nhiều Quỹ - Tổ chức năm giữ CP thiếu tiền mặt. Do vậy, sẽ có những tổ chức bán Cổ phiếu ra dù rằng giá hiện nay là rât thâp. Vì thế giá CP sẽ còn tiếp tục xu hướng giảm nhẹ đến cận Tết. Kết hợp với những khó khăn của BĐS thời điểm tháng 2 đến T4/2012, giá CP sẽ khó có cơ hội tăng mạnh. Hơn nữa thời điểm này, hàng loạt các DN sẽ tổ chức Đại hội cổ đông về KH năm 2012, trong đó các Quỹ sẽ công bố KH tồn tại hay giải tán. Theo đánh giá thì sẽ được nới thêm thời hạn, hoặc mô hình Quỹ mở sẽ hấp thụ hết các Quỹ phải giải tán (do đủ thời hạn 5 năm). Điềun ày thực tế không đáng lo ngại.
- Tuy nhiên, đây lại chính là thời điểm mà lựa chọn đầu tư như một phần tài sản trong danh mục này. Bởi khi hết Quý 2/2012 nếu không có diễn biến quá xấu xảy ra thì Việt Nam có thể coi như bớt đi nhiều gánh nặng. Yếu tố Vĩ mô sẽ sáng sủa hơn. Theo dự báo kịch bản xảy ra như sau : Thang 1 hoặc thán g2 sẽ giảm lãi suất tạo tiền đề giảm LSCV.Năm 2012 được dự báo là năm khó khăn vì thế nhu cầu sản xuất thế giới giảm à giá cả Nguyen vật liệu sẽ rẻ đi. Đây chính là thời điểm các DN trong nước sẽ có cơ hội phục hồi lại sản xuất.
Chủ Nhật, 4 tháng 12, 2011
NẾU LÃI SUẤT HUY ĐỘNG GIẢM ??
Trên thị trường đang có những đồn đoàn rằng, LSHĐ sẽ giảm nhằm tạo áp lực thêm cho việc giảm LSCV. Vậy hãy xem xét các nhân tố có thể giúp thực hiện điều này :
1 - Lạm phát : 3 tháng trở lại đây, CPI có tăng nhưng mức độ tăng là không nhiều. Lo ngại nhất là cận Tết, khi đó CPI có thể tăng mạnh trở lại. Xét theo yếu tố này, tôi có quan điểm rằng, CPI không thể tăng mạnh và đột biến. Trước hết, sống quá lâu với lạm phát cao, giá cả tăng cao lại cộng với việc thắt chặt tiền tệ khiến cho việc kiếm tiền trở nên cực kỳ khó khăn. Vì thế khi mua các sản phẩm họ phải tính toán rất kỹ. Hơn nữa trước áp lực Tương lai (do chưa nhận thấy yếu tố đột biến có thể mang lại nguồn tiền), cộng với lo ngại về chi phí sắp phải tăng lên do thay đổi chi phí đầu vào như Điện - Xăng, khi đó mức chi tiêu tiếp tục ở mức thấp. Vì thế lo ngại CPI tăng tháng cận Tết không nhiều cơ sở
2 - Doanh nghiệp mòn mỏi : Lãi suất cao khiến DN lao đao. 9 tháng có hơn 50.000 DN bị khai tử, BCTC của hàng loạt DN cho thấy các khoann "phải thu ngắn hạn" tăng lên mạnh, nguồn tiền lưu động thấp hơn cả khoản vay ngắn hạn. Nếu cứ tiếp tục thì việc DN chết dần chết mòn trong năm 2012 là khả năng cao.
3 - Lãi suất kỳ vọng thực dương : dù CP có nói sẽ cố gắng giữ CPI<10% thì việc LSHD =14% cho thấy thực dương rồi?? Giảm về 12% vẫn có lãi 2% minimum. Tuy nhiên áp lực để có được CPI < 10% chính nhờ cả vaofo yếu tố giảm LSCV.
4 - Nguy cơ Nhập khẩu lạm phát :
1 - Lạm phát : 3 tháng trở lại đây, CPI có tăng nhưng mức độ tăng là không nhiều. Lo ngại nhất là cận Tết, khi đó CPI có thể tăng mạnh trở lại. Xét theo yếu tố này, tôi có quan điểm rằng, CPI không thể tăng mạnh và đột biến. Trước hết, sống quá lâu với lạm phát cao, giá cả tăng cao lại cộng với việc thắt chặt tiền tệ khiến cho việc kiếm tiền trở nên cực kỳ khó khăn. Vì thế khi mua các sản phẩm họ phải tính toán rất kỹ. Hơn nữa trước áp lực Tương lai (do chưa nhận thấy yếu tố đột biến có thể mang lại nguồn tiền), cộng với lo ngại về chi phí sắp phải tăng lên do thay đổi chi phí đầu vào như Điện - Xăng, khi đó mức chi tiêu tiếp tục ở mức thấp. Vì thế lo ngại CPI tăng tháng cận Tết không nhiều cơ sở
2 - Doanh nghiệp mòn mỏi : Lãi suất cao khiến DN lao đao. 9 tháng có hơn 50.000 DN bị khai tử, BCTC của hàng loạt DN cho thấy các khoann "phải thu ngắn hạn" tăng lên mạnh, nguồn tiền lưu động thấp hơn cả khoản vay ngắn hạn. Nếu cứ tiếp tục thì việc DN chết dần chết mòn trong năm 2012 là khả năng cao.
3 - Lãi suất kỳ vọng thực dương : dù CP có nói sẽ cố gắng giữ CPI<10% thì việc LSHD =14% cho thấy thực dương rồi?? Giảm về 12% vẫn có lãi 2% minimum. Tuy nhiên áp lực để có được CPI < 10% chính nhờ cả vaofo yếu tố giảm LSCV.
4 - Nguy cơ Nhập khẩu lạm phát :
HẬU QUẢ CỦA THẮT CHẶT TIỀN TỆ
Khi phải thực hiện biện pháp này có thể điểm qua các vấn đề với nền kinh tế :
- Lạm phát quá cao và tiếp tục xu hướng cho thấy tăng
- Sử dụng đồng tiền quá lãng phí.
- Bong bóng tài sản bắt đầu hình thành
- Tiền tăng nhưng kèm theo đó là các chỉ số cho thấy tài sản không tăng --> đầu cơ quá cao
1. Khởi phát và đẩy mạnh cuộc đua tăng lãi suất:
Quyết định rút tiền ra khỏi lưu thông bằng tín phiếu sẽ tiếp thêm năng lượng cho những cuộc đua tăng lãi suất của ngân hàng. Nhìn ở một khía cạnh nào đó, cuộc đua này sẽ khiến nhiều người bắt đầu quan tâm trở lại với việc đem tiền đi gửi ngân hàng vì lãi suất tiền gửi tăng cao.
Tuy nhiên, nếu lãi suất huy động của ngân hàng tăng thì lãi suất đầu ra khó mà đứng yên. Như vậy, chi phí vay mượn chosản xuất kinh doanh sẽ tăng lên. Ở đây có hai tình huống có thể xảy ra. Một là doanh nghiệp chuyển hết phần chi phí tăng thêm này vào giá bán và như vậy, giá cả không những không giảm mà tăng thêm, khiến mục tiêu giảm lạm phát bằng thắt chặt tiền tệ không thể thực hiện. Việc doanh nghiệp có thể chuyển chi phí vay mượn vào giá cả hay không phụ thuộc vào kỳ vọng lạm phát của người dân và khả năng có các nguồn hàng thay thế trên thị trường[2].
Không thể xem thường, không giám sát kỹ các khâu trong quá trình lưu thông hàng hóa, tránh tình trạng hàng rẻ mà doanh nghiệp vẫn thích bán giá mắc vì người dân vẫn đang trong tình trạng lo sợ tăng giá. Còn trong tình huống thứ hai, đó là chi phí sản xuất kinh doanh tăng lên, mà doanh nghiệp không thể chuyển phần chi phí này vào giá bán thì họ sẽ chịu nhiều khó khăn, có thể dẫn đến thua lỗ, và giảm quy mô kinh doanh[3][4].
2. DN rơi vào tình trạng giải thế và phá sản khá nhiều
Khi DN đang có thói quen kinh doanh trong môi trường thuận lợi bởi sự chi tiêu có phần phóng khoáng do KT đang thoải mái. Khi thắt chặt tiền tệ gây ra cuộc chạy đua lãi suất cao làm chi phí tăng mạnh. Có DN mà chi phí lãi vay chiếm gần hết lợi nhuận. Một điều hết sức khủng là, DN vay quá nhiều để mở rộng sản xuất, khi gặp tình hình này khiến cho việc SXKD gặp trở ngại, và khoản vay mở rộng sản xuất là một khoản nợ khổng lồ mà THOÁI không xong, TIẾP không nổi do chi phí vốn.
Chính điều đó gây ra hiện tượng nhiều DN phá sản. Năm 2011, chỉ riêng 9 tháng đã có đến 48.000 DN phá sản.
3. Tạo áp lực lên tăng trưởng và việc làm:
Quyết định thắt chặt tiền tệ sẽ tạo áp lực tăng lãi suất ngân hàng, tăng chi phí vay mượn cho sản xuất kinh doanh trong tình hình nền kinh tế cần nhiều vốn để phát triển (hệ số ICOR của nền kinh tế còn quá cao nên để duy trì tăng trưởng thì phải đổ nhiều vốn vào), có thể là sự sụt giảm đáng kể trong tỷ lệ tăng trưởng kinh tế. Chỉ số tăng trưởng quốc gia sau khi thắt chặt tiền tệ sẽ bị ảnh hưởng mạnh. Mà tăng trưởng không cao thì sẽ tạo sức ép lên việc làm và thu nhập của người dân[5].
4. Nguồn vốn đầu tư bị giảm mạnh :
Nguồn vốn này xuất phát từ các Tổ chức – Ngân hang và dân cư. Khi thắt chặt tiền tệ, họ thường có xu hướng thu hồi tiền về. Việc bán bớt danh mục đầu tư xuất hiện giai đoạn đầu ( giai đoạn này thường là các nhóm người am hiểu tài chính). Sau đó sẽ là việc bị bán tháp Tài sản Thuộc nhóm thanh khoản ( Chứng khoán) và cuối cùng là căng thẳng sẽ đến với nhóm TS không thanh khoản bị đóng băng ( Bất động sản) và giá sẽ về đến ngướng thấp nhất để hút trở lại lực Câu fthực sự. (Giai đoạn Nhà đầu cơ mất tài sản lớn nhất)
5. Trở ngại cho thu hút vốn gián tiếp:
Các quy định thắt chặt tiền tệ sẽ tạo ra cảm giác cho nhà đầu tư là nhà nước đang cho "hy sinh" các thị trường vốn và thị trường chứng khoán để chống lạm phát. Điều này có khả năng sẽ làm xói mòn hơn nữa niềm tin của nhà đầu tư.
6. Đồng tiền lên giá:
Áp lực tăng giá đồng tiền sẽ gây ảnh hưởng không nhỏ cho xuất khẩu. Hậu quả chung là làm cho xuất khẩu bị giảm sút mạnh và hàng xuất khẩu bị giảm sức cạnh tranh.
7. Gây áp lực lên Lãi suất ngoại tệ và tỷ giá ngoại tệ cuối năm
Khi Lãi suất tiền VND tăng cao, trong khi lãi suất ngoai tệ thấp. Tận dụng điều này, nhiều DN vay USD quy đổi sang VND và gửi lại tổ chức tín dụng.
• Hệ lụy của điều này :
- Lúc đầu tạo ra : Tăng dư nợ ngoại tệ --> khi bán ngoại tệ lấy TM và gửi lại NH --> tăng lượng tiền huy động
- KHi đáo hạn : Rút tiền ra mua ngoại tệ --> Hụt lượng tiền gửi --> Tranh mua ngoai tệ gây tăng tỷ giá --> trả nợ ngoại tệ --> giảm dư nợ ngoại tệ --> Dầu cơ ngoại tệ --> ảnh hưởng nền kinh tế buộc NHNN phải can thiếp --> Bán ngoai tệ ra làm giảm dự trữ Ngoại tệ.
Nguy hiểm 2 lần được tạo ra thời điểm này : Gây căng thẳng tỷ giá và gây thiếu hụt tiền mặt làm ảnh hưởng thanh khoản của các Ngân hàng và lại tiếp tục gây sức ép lên Lãi suất.
• Hoạt động của các Ngân hàng tạo ra rủi ro lớn cho cả nền kinh tế lẫn hệ thống Tài chính quốc gia. Vì thế, việc sắp xếp và tạo sự ổn định là điều tất yếu phải xảy ra, nếu không muốn đất nước bị vỡ nợ bào phủ.
8. Các vấn đề xã hội được bộc lộ - Tín dụng đen nở rộ :
Khi cuộc đua lãi suất từ các Ngân hàng xảy ra khiến nhiều người không tiếp cận được nguồn vốn do tiêu chí cho vay nâng lên. Vì thế Tín dụng đen mở rộng.
Khi lãi mẹ đẻ lãi con, thời gian làm cho nguồn tiền cạn kiệt vì lãi khi lãi suất lên đến 7-8%/tháng. Tất yếu gây đổ vỡ. Vỡ nợ xảy ra tuy nhiên mới chỉ thấy được sự vỡ nợ từ Tư nhân (tín đụng đen) chứ chưa thấy từ các Cty hay Ngân hàng. Mà thực tế thì Ngân hang cũng đã lâm vào cảnh này rồi nhưng nếu để NH đổ vỡ thì hệ thống tài chính tê liệt.
Các chủ nợ quay vòng TS quá nhanh, lãi mẹ đẻ lãi con và Tiền dung vào việc mua BĐS. Tâm lý người Việt là đất và Vàng chỉ có lên vì thế nên Tiền đổ vào nhiều.
9. Giải chấp tài sản xảy ra
Việc giải chấp thường bắt đầu từ các Tài sản có tính lỏng cao như : Cổ phiếu – Trái phiếu. Sau đó là hệ lụy của các Tài sản lớn được đảm bảo bằng Tiền Nợ như : Mua TSCĐ lớn và BĐS
- Lạm phát quá cao và tiếp tục xu hướng cho thấy tăng
- Sử dụng đồng tiền quá lãng phí.
- Bong bóng tài sản bắt đầu hình thành
- Tiền tăng nhưng kèm theo đó là các chỉ số cho thấy tài sản không tăng --> đầu cơ quá cao
1. Khởi phát và đẩy mạnh cuộc đua tăng lãi suất:
Quyết định rút tiền ra khỏi lưu thông bằng tín phiếu sẽ tiếp thêm năng lượng cho những cuộc đua tăng lãi suất của ngân hàng. Nhìn ở một khía cạnh nào đó, cuộc đua này sẽ khiến nhiều người bắt đầu quan tâm trở lại với việc đem tiền đi gửi ngân hàng vì lãi suất tiền gửi tăng cao.
Tuy nhiên, nếu lãi suất huy động của ngân hàng tăng thì lãi suất đầu ra khó mà đứng yên. Như vậy, chi phí vay mượn chosản xuất kinh doanh sẽ tăng lên. Ở đây có hai tình huống có thể xảy ra. Một là doanh nghiệp chuyển hết phần chi phí tăng thêm này vào giá bán và như vậy, giá cả không những không giảm mà tăng thêm, khiến mục tiêu giảm lạm phát bằng thắt chặt tiền tệ không thể thực hiện. Việc doanh nghiệp có thể chuyển chi phí vay mượn vào giá cả hay không phụ thuộc vào kỳ vọng lạm phát của người dân và khả năng có các nguồn hàng thay thế trên thị trường[2].
Không thể xem thường, không giám sát kỹ các khâu trong quá trình lưu thông hàng hóa, tránh tình trạng hàng rẻ mà doanh nghiệp vẫn thích bán giá mắc vì người dân vẫn đang trong tình trạng lo sợ tăng giá. Còn trong tình huống thứ hai, đó là chi phí sản xuất kinh doanh tăng lên, mà doanh nghiệp không thể chuyển phần chi phí này vào giá bán thì họ sẽ chịu nhiều khó khăn, có thể dẫn đến thua lỗ, và giảm quy mô kinh doanh[3][4].
2. DN rơi vào tình trạng giải thế và phá sản khá nhiều
Khi DN đang có thói quen kinh doanh trong môi trường thuận lợi bởi sự chi tiêu có phần phóng khoáng do KT đang thoải mái. Khi thắt chặt tiền tệ gây ra cuộc chạy đua lãi suất cao làm chi phí tăng mạnh. Có DN mà chi phí lãi vay chiếm gần hết lợi nhuận. Một điều hết sức khủng là, DN vay quá nhiều để mở rộng sản xuất, khi gặp tình hình này khiến cho việc SXKD gặp trở ngại, và khoản vay mở rộng sản xuất là một khoản nợ khổng lồ mà THOÁI không xong, TIẾP không nổi do chi phí vốn.
Chính điều đó gây ra hiện tượng nhiều DN phá sản. Năm 2011, chỉ riêng 9 tháng đã có đến 48.000 DN phá sản.
3. Tạo áp lực lên tăng trưởng và việc làm:
Quyết định thắt chặt tiền tệ sẽ tạo áp lực tăng lãi suất ngân hàng, tăng chi phí vay mượn cho sản xuất kinh doanh trong tình hình nền kinh tế cần nhiều vốn để phát triển (hệ số ICOR của nền kinh tế còn quá cao nên để duy trì tăng trưởng thì phải đổ nhiều vốn vào), có thể là sự sụt giảm đáng kể trong tỷ lệ tăng trưởng kinh tế. Chỉ số tăng trưởng quốc gia sau khi thắt chặt tiền tệ sẽ bị ảnh hưởng mạnh. Mà tăng trưởng không cao thì sẽ tạo sức ép lên việc làm và thu nhập của người dân[5].
4. Nguồn vốn đầu tư bị giảm mạnh :
Nguồn vốn này xuất phát từ các Tổ chức – Ngân hang và dân cư. Khi thắt chặt tiền tệ, họ thường có xu hướng thu hồi tiền về. Việc bán bớt danh mục đầu tư xuất hiện giai đoạn đầu ( giai đoạn này thường là các nhóm người am hiểu tài chính). Sau đó sẽ là việc bị bán tháp Tài sản Thuộc nhóm thanh khoản ( Chứng khoán) và cuối cùng là căng thẳng sẽ đến với nhóm TS không thanh khoản bị đóng băng ( Bất động sản) và giá sẽ về đến ngướng thấp nhất để hút trở lại lực Câu fthực sự. (Giai đoạn Nhà đầu cơ mất tài sản lớn nhất)
5. Trở ngại cho thu hút vốn gián tiếp:
Các quy định thắt chặt tiền tệ sẽ tạo ra cảm giác cho nhà đầu tư là nhà nước đang cho "hy sinh" các thị trường vốn và thị trường chứng khoán để chống lạm phát. Điều này có khả năng sẽ làm xói mòn hơn nữa niềm tin của nhà đầu tư.
6. Đồng tiền lên giá:
Áp lực tăng giá đồng tiền sẽ gây ảnh hưởng không nhỏ cho xuất khẩu. Hậu quả chung là làm cho xuất khẩu bị giảm sút mạnh và hàng xuất khẩu bị giảm sức cạnh tranh.
7. Gây áp lực lên Lãi suất ngoại tệ và tỷ giá ngoại tệ cuối năm
Khi Lãi suất tiền VND tăng cao, trong khi lãi suất ngoai tệ thấp. Tận dụng điều này, nhiều DN vay USD quy đổi sang VND và gửi lại tổ chức tín dụng.
• Hệ lụy của điều này :
- Lúc đầu tạo ra : Tăng dư nợ ngoại tệ --> khi bán ngoại tệ lấy TM và gửi lại NH --> tăng lượng tiền huy động
- KHi đáo hạn : Rút tiền ra mua ngoại tệ --> Hụt lượng tiền gửi --> Tranh mua ngoai tệ gây tăng tỷ giá --> trả nợ ngoại tệ --> giảm dư nợ ngoại tệ --> Dầu cơ ngoại tệ --> ảnh hưởng nền kinh tế buộc NHNN phải can thiếp --> Bán ngoai tệ ra làm giảm dự trữ Ngoại tệ.
Nguy hiểm 2 lần được tạo ra thời điểm này : Gây căng thẳng tỷ giá và gây thiếu hụt tiền mặt làm ảnh hưởng thanh khoản của các Ngân hàng và lại tiếp tục gây sức ép lên Lãi suất.
• Hoạt động của các Ngân hàng tạo ra rủi ro lớn cho cả nền kinh tế lẫn hệ thống Tài chính quốc gia. Vì thế, việc sắp xếp và tạo sự ổn định là điều tất yếu phải xảy ra, nếu không muốn đất nước bị vỡ nợ bào phủ.
8. Các vấn đề xã hội được bộc lộ - Tín dụng đen nở rộ :
Khi cuộc đua lãi suất từ các Ngân hàng xảy ra khiến nhiều người không tiếp cận được nguồn vốn do tiêu chí cho vay nâng lên. Vì thế Tín dụng đen mở rộng.
Khi lãi mẹ đẻ lãi con, thời gian làm cho nguồn tiền cạn kiệt vì lãi khi lãi suất lên đến 7-8%/tháng. Tất yếu gây đổ vỡ. Vỡ nợ xảy ra tuy nhiên mới chỉ thấy được sự vỡ nợ từ Tư nhân (tín đụng đen) chứ chưa thấy từ các Cty hay Ngân hàng. Mà thực tế thì Ngân hang cũng đã lâm vào cảnh này rồi nhưng nếu để NH đổ vỡ thì hệ thống tài chính tê liệt.
Các chủ nợ quay vòng TS quá nhanh, lãi mẹ đẻ lãi con và Tiền dung vào việc mua BĐS. Tâm lý người Việt là đất và Vàng chỉ có lên vì thế nên Tiền đổ vào nhiều.
9. Giải chấp tài sản xảy ra
Việc giải chấp thường bắt đầu từ các Tài sản có tính lỏng cao như : Cổ phiếu – Trái phiếu. Sau đó là hệ lụy của các Tài sản lớn được đảm bảo bằng Tiền Nợ như : Mua TSCĐ lớn và BĐS
Đăng ký:
Nhận xét (Atom)